VĂN VIỆT
Năm mới 2011, Già bước sang tuổi 83 nhưng
trông vẫn mạnh khỏe và nhanh nhẹn. Mỗi ngày mới của Già là mỗi ngày Già cưỡi máy
cày xuống đồng, lái xe máy khắp buôn làng và dạo bước một vòng trông coi con
cháu…Già nói “Học và làm theo Bác mỗi ngày của Già ở buôn là nghĩ và làm cho
cây lúa trong nhà nhiều hạt; nói với con cháu phải đoàn kết và không được làm
biếng; là nghĩ và làm bất cứ việc gì để giúp ích được cho bà con dân bản...” Vâng,
đó là Già làng Ja B’Rai, người Chu Ru ở thôn To Neuh, xã Tà Năng, Đức Trọng. Già là điển hình của cá nhân trong tỉnh Lâm
Đồng sau 4 năm hưởng ứng cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh”
Sau
mấy ngày hẹn trước, tôi mới gặp được Già làng Ja B’Rai vào
một ngày cuối đông khi Già đang bồng bế giữ trẻ là đứa cháu ngoại của mình. Già
được bắt làm chồng lúc tuổi đôi mươi, đã sinh được 3 người con gái và 1 người con
trai,. Tất cả người con trai có vợ, con gái có chồng, sinh ra cháu; rồi cháu
tiếp tục xây dựng tổ ấm mới sinh ra chắt…Đông vui đến nay con, cháu, chắt của
Già là hơn 30 người, đều dựng nhà ở riêng nhưng xa nhất cách nhà Già chỉ mười
lăm phút xe máy ( Già có thể đi xe máy cả ngày lên xã, lên huyện). Sum vầy với
con cháu trong cuộc sống thanh bình hôm nay, Già không bao giờ quên với cảnh
hồi chiến tranh chống Mỹ, buôn làng bị bom đạn cày xới, trâu bò bị giặc cướp
bóc. “Nhưng mà Già lúc đó không có biết sợ chết là gì. Ban ngày Già làm lúa,
làm bắp. Ban đêm Già nấu những nồi cơm to, có khi mang lên khu vực căn cứ, có
khi gọi bộ đội về nhà ăn để lấy sức đánh giặc….” Già nhớ lại. Ấy là những năm
trước và sau chiến dịch Mậu Thân năm 1968. Đàn trâu, bò của Già bị giặc xỉa
súng bắn lấy thịt lên đến trên 20 con. Có đến 2, 3 bồ lúa to của Già cũng bị
giặc cưỡng đoạt khuân chở đi. Bởi trước đó giặc đến hăm dọa rồi dụ dỗ vẫn bị Già
cương quyết không cho bất cứ một vật dụng, một hạt lúa, hạt bắp nào của Già. Mà
trước sau Già vẫn không hề sợ giặc, mất
hết lứa lúa này thì làm lại lứa lúa khác, nuôi lại con trâu, con bò khác để ngụy
trang nuôi quân giải phóng cho đến ngày chiến đấu thắng lợi hoàn toàn.
Giải
phóng về, Già dựng lại căn nhà đã bị đổ nát. Rồi mau chóng cầm cây cuốc, cây xà
gạc, cần mẫn khai hoang vỡ hóa trên mảnh đất buôn làng của mình đã đánh đuổi
hết giặc thù. Tiếp cận khoa học kỹ thuật mới, hàng ngày đến hàng tháng bên cạnh
cây lúa nước, cây bắp trên đất cao, Già mạnh dạn thử nghiệm với cây cà phê. Kết
quả cây cà phê đã đền đáp xứng đáng công sức, suy nghĩ tìm tòi cách chăm bón
của Già với những mùa bội thu được ba, bốn tấn nhân trên mỗi ha. Năm tháng qua
đi, con gái, con trai của Già đã trưởng thành.Già tích góp hoa lợi có được để
mua thêm đất đai, mở rộng sản xuất, để lại của hồi môn cho con. Già có 3 người
con gái, mỗi người khi bắt chồng về, Già đều cho hơn 100 mét vuông đất thổ cư
làm nhà, cho gần 01 mẫu đất làm ruộng lúa sinh sống. Riêng con trai đi làm
chồng cho con gái ở buôn lân cận thì không phải tốn lễ vật cưới hỏi theo phong
tục của đồng bào Chu Ru. Nhưng không vì vậy mà Già đã hết lo cho con trai. Già
khuyên con trai về nhà người ta phải siêng năng cùng với vợ lao động sản xuất,
nuôi con ăn học, xây nhà, sắm xe máy lên huyện, lên tỉnh tiếp xúc với đời sống văn
minh, hiện đại. Theo khuyên bảo của Già, con gái, con trai của Già đã định
canh, định cư ổn định và đi lên từng ngày. Già cho hay, đến nay, trung bình mỗi
gia đình riêng con gái, con trai của Già đã tạo dựng được quyền sử dụng trên
1,2 ha lúa nước và 1,2 ha cà phê. Đời sống khắm khá hơn lên, thế hệ hàng cháu
của Già đã có người bước vào ngưỡng cửa
đại học. Hàng tháng, Già bảo con cháu tập trung ở nhà Già một lần để thăm hỏi
việc tương lai học hành của con cái, chỉ dẫn cho nhau những kinh nghiệm trồng
cây, chăn nuôi giỏi.
“Sản
xuất lúa mỗi năm 2 vụ, con gái, con trai của Già thu mỗi vụ hơn 3 tấn trên 01
mẫu; hàng năm thu cà phê cũng khoảng ba, bốn tấn nhân. Cũng th trên lúa, cà phê mỗi năm bằng như gia
đình của con gái, con trai như vậy, Già đang chuy6en canh hơn 07 sào lúa, 01
mẫu cà phê…”- Già làng Gia B’Rai cho biết. Già có đủ tư liệu sản xuất để làm
thay sức người như máy cày, máy bơm nước, máy tuốt lúa…Xong việc đồng áng ở nhà
riêng, những tư liệu sản xuất này được Già làm đổi công cho tất cả nhu cầu của
bà con dân bản. Ví dụ Già đem máy đến suốt lúa cho hộ gia đình nào đó thì sau
đó họ sẽ đổi công hái cà phê hoặc làm cỏ lúa cho Già. Máy phục vụ sản xuất nông
nghiệp của Già không làm lấy tiền một ai. Chẳng han nếu người được Già đưa máy
xuống cày ruộng giúp, họ không có lao động để đổi công thì thường bồi dưỡng cho
Già bằng mấy cân nếp, con gà, coi như bù cho Già phần hao phí xăng, dầu. Với
đời sống tinh thần của của bà con trong buôn, Già cũng có những cách nhiệt tình
giúp đỡ. Như gia đình trẻ nào đó có to tiếng cãi vã, biết được Già đến ngay
cùng với tổ hòa giải. Thấy gia đình nào có con cái chưa chịu khó học hành, Già
cũng chọn lựa lúc có đầy đủ người trong gia đình, đang vui vẻ quây quần với
nhau, để đến nhà nói chuyện đưa con em họ đến lớp, đến trường đều đặn. Già
thường nói: “Ơn Bác Hồ, ơn Đảng đã cho buôn làng mình có điện, có đường, có
trường, có trạm…thì Già biết mình phải góp sức với dân bản cùng xây dựng đời
sống no đủ cơm ăn, áo mặc, mọi người một lòng thương yêu, giúp đỡ với nhau…”
Thôn
( buôn) To Neuh, nơi định cư của Già làng Ja B’Rai đón chào năm mới 2011, được
ra mắt là thôn văn hóa của xã Tà Năng, Đức Trọng. Trước thành tích này, Bí thư Đảng
ủy xã Tà Năng, ông Hoàng Văn Tư nói: “Đảng ủy ghi nhận và đánh giá cao về điển
hình của Già làng Ja B’Rai đã làm gương về lối sống, tinh thần lao động chịu
thương, chịu khó cho con cháu noi theo. Đặc biệt Già làng là một nhân tố sản
xuất giỏi trong thôn, trong xã, và là người hòa giải viên tích cực, đã góp phần bằng uy tín và những việc làm thiết
thực của mình để xây dựng đời sống văn hóa mới ở khu dân cư…”./.
Tháng 12/2010