VŨ VĂN
ông H.
mua bà M. một căn nhà, dọn về đó ở. Mười năm sau “vật đổi sao dời”, ông lật
lọng, kiện bà M. ra tòa đòi hủy toàn bộ thỏa thuận ban đầu. Suy tính mãi, cuối
cùng ông H. mới chấp nhận thối lui lại bà M. ba lượng vàng y tiền thi hành án.
Con người có một tâm hồn lạnh lẽo như ông H. phải chăng vẫn còn sót lại một
chút tình người, dù đó là một sự miễn cưỡng ?
Đã đưa ra tòa thì mọi sự đều sòng phẳng, cân phân đến từng
ly, từng tí một. Hai bên đều công nhận trước công đường rằng, những năm đầu
thập kỷ ’90 của thế kỷ trước, cơn sốt đất cả nước nói chung, thành phố Đà Lạt
nói riêng cứ leo thang lên vùn vụt. Ngoại trừ các nhà đầu tư làm ăn, họ có mục
đích riêng của họ. Cũng không kể những kẻ đầu cơ về đất đai, vì họ là những
người chụp giựt, luồn lách qua mọi kẽ hở của pháp luật để làm giàu nhanh và làm
giàu hết sức bất chính. Ông H. thì hoàn toàn khác. Lẫn trong dòng người lên phố
sương mù, chen đua mua đất, ông từ Sài
Gòo6n vượt đèo lên Đà Lạt cố kiếm một chỗ sao cho vừa với túi tiền, lại hợp với
sở thích riêng. Ngắm nghía, trông đi, trông lại, trả giá, so bì nơi này với nơi khác, cuối cùng ông
quyết định mua một căn nhà nằm trên một thổ đất nhỏ. Nhà trong hẻm nhưng cũng
gần trung tâm thành phố, giá mười bảy lượng năm chỉ vàng cũng quá rẻ với thời
đó. Đồng ý, ông H. và bà M. cùng lên Ủy ban nhân dân phường chứng nhận, chụp
con dấu đỏ. Xong xuôi “tiền trao cháo múc” đâu vào đó, bà M. chuyển chỗ ở mới.
Ông H. lục tục đến tiếp quản căn nhà…
Suốt một thời gian làm chủ sử dụng căn nhà nói trên, ông H.
rất bình yên, chẳng một ai đến quấy rầy tranh chấp với ông. Thoắt một cái đã đi
qua hơn mười năm. Cơ chế thị trường biến động mạnh. Đất đai không tăng nữa, vả
lại theo đà giảm dần, tiệm cận đến mức bình ổn. Nhà trong hẻm muốn làm ăn gì
cũng khó. Của một đống tiền đổ vào đó chẳng thấy sinh lời đâu, chỉ thấy căn nhà
ngày càng xuống cấp đến tệ hại. Người ta thường gọi căn nhà cấp bốn là cấp nhà
xây thấp nhất, nhưng căn nhà này gọi là không có cấp nào thì đúng hơn. Vài chục
mét vuông bó hẹp, đủ cái giường ngủ, đặt vài chiếc ghế cho chỗ khách ngồi. Kế
bên là một gian bếp và công trình phụ hết sức chật chội. Ngẫm ngợi mãi, ông H.
buộc lòng cho khách đến thuê, muốn ở hoặc làm ăn gì thì làm, chỉ mong ông gỡ
gạc được đồng nào hay đồng ấy.
Nhưng những điều đó chưa hẳn đã là điều “sống còn” đối với
căn nhà này. Cái chính là ông chưa có giấy chứng nhận đứng tên sở hữu của nó.
Thuế má nhà đất có đóng đều đấy. Nghị định sáu mươi, sáu mốt, ông cũng đều kê
khai đầy đủ. Ngặt nỗi, ông chờ sao lâu quá. Nơm nớp lo chưa xong, lại còn nơm
nớp tiếc nữa. Tiếc rằng hồi đó, ông giữ số vàng này hoặc gửi vào ngân hàng thì
đến nay, ông thừa sức mua hai căn nhà như thế. Nếu không thì phải là một căn
ngon lành ở xứ phố núi cao nguyên này. Không được. Không thể cứ cam chịu một sự
thiệt hại đau như vậy. Ông quyết định kiện ra tòa theo như lời rỉ tai của ai đó
đã am hiểu pháp luật. Công đường nhận cái đơn khởi kiện về tranh chấp hợp đồng
mua bán nhà thật hiếm thấy như thế.
Nghe tòa tống đạt giấy triệu tập, bà M. bật ngửa. Ở đời lại
còn có chuyện lạ lùng vậy chăng. Dẫu sao một sự thật phũ phàng đã đến rồi. Bà
M. tha thẩn đến toà để hầu…ông H. Tất nhiên theo nguyên tắc quyền định đoạt tài
sản là…cốt ở hai bên. Hòa giải và hoà giải. Nhất quyết của ông H. là xin huỷ
việc mua bán nhà đó, buộc bà M. phải trả lại toàn bộ số vàng đã nhận của ông H.
để bán nhà. Còn bà M. thì đương nhiên là rất thiện ý. Xin được thương lượng và
tiếp tục cùng nhau hợp thức sở hữu giấy tờ nhà đất hợp pháp cho ông H. Đôi co
căng thẳng mà hai bên vẫn chưa tìm ra được một tiếng nói chung. Toà mở phiên
xử. Do việc mua bán nhà khi chưa thiết lập giấy tờ sở hữu nên không được nhà
nước công nhận là hợp pháp, nên toà tuyên hủy toàn bộ quan hệ giao dịch này.
Hai bên khôi phục lại tình trạng ban đầu. Bên bán trả lại đủ số vàng cho bên
mua. Bên mua trả lại nhà cho bên bán. Kháng cáo lên tòa cấp trên. Tòa y án. Bản
án cuối cùng có hiệu lực thi hành ngay.
Đã đến ngày cận tết con ngựa mà bà M. chưa thể nào có đủ số
vàng trả lại cho ông H. Oái oăm quá sức tưởng tượng. Giữa lúc ông H. lên cơ
quan thi hành án Đà Lạt ráo riết yêu cầu cơ quan này buộc bà M. thi hành án cho
ông thì may thay, có một người đàn bà nghe chuyện liền đến mua lại căn nhà ấy
với giá mười lượng vàng. Sự xuất hiện bất ngờ của một người thứ ba khiến cho
tình người được khơi dậy. Biên bản ba bên được lập. Ông H. đồng ý nhận trước mười
lượng vàng từ người thứ ba ấy. Còn lại bảy lượng năm chỉ vàng, ông H. quyết
định chỉ lấy thêm bốn lượng năm chỉ nữa mà thôi. Hình như ông H. cảm thấy chột
dạ trước một hành động đẹp của một người thứ ba thì phải. Còn bà M. dù được an
ủi phần nào, không nói thêm được nhiều hơn, nhưng vẫn cảm thấy ở cổ họng đăng
đắng làm sao…./.\
Đà Lạt Tháng 2/2002