Phóng sự VĂN VIỆT( Giải Khuyến Khích Giải Báo chí tỉnh Lâm Đồng năm 2006)
Lội bộ đến lưng chừng dãy đồi thoai thoải rừng cây
cao su, ông Cao Viết Xuân, Phó chủ tịch UBND xã Đoàn Kết (Đạ Huoai, Lâm Đồng)
bộc bạch: “Vẫn chưa nhiều người ngoài địa phương vào tới khu này. Đường đi đôi
khi trắc trở, nhưng trông thấy từng hàng cao su kéo dài tít tắp, cho ra những
dòng nhựa trắng đậm đặc, không ai còn cảm giác nghèo túng nữa…” Suy ngẫm với
“lời thoại” này, tôi hình dung về một “thủ phủ” cao su nơi miền đất Nam Tây
Nguyên…
*MƯỜI MẤY NĂM “ẨN TÍCH”
Gặp
tôi giữa “đồn điền” cả héc ta đất cao su đang kỳ thu hoạch, chủ nhân Nguyễn Thị
Ngà nói về những ngày kham khổ của mình. Ấy là những năm đầu thập kỷ “chín
mươi” của thế kỷ trước, diện tích đất cao su này thuộc “lãnh thổ” vùng sâu,
vùng xa đặc biệt khó khăn của xã Đức Phú (Tánh Linh, Bình Thuận). Được hưởng
một trong các chương trình đầu tư dự án phủ xanh đất trống đồi trọc lâm nghiệp,
hộ chị Ngà nhận giống cây con cao su để trồng trên diện tích 01 ha. Chị Ngà nhớ
lại: “Cả xã bao đời có biết trồng cây cao su như thế nào đâu. Lại không ai cầm
tay hướng dẫn gì về khoa học kỷ thuật. Cứ nghe bảo gỏn lọn rằng đào hố hình
vuông, xuống giống lấp đất trồng theo kích thước cây cách cây 3m; hàng cách
hàng 6m là được !” Và sau ngày tập kết
giống cây cao su về vườn rẫy bởi nhiều nguyên do khác nhau, dự án trồng cây cao
su gần như bỏ mặc cho người dân tự định đoạt.
Trong
tâm thế “bỏ thì thương, vương thì tội”, hộ chị Ngà vừa trồng xong 550 cây “su”
bám rễ vào đất là phải nghĩ tới cách “lấy ngắn nuôi dài”. Chị trồng cây khoai
mì xen với cây “su” nhưng chỉ kéo dài được đến hết năm thứ 2, năng suất củ lại
rất ít. “Su” phát triển đến thời điểm chiều cao vượt quá đầu người, lại phát
tán những làn hơi mủ non “kết tủa” từ lá, cành, thân, gốc…ra ngoài khiến bất kỳ
cây hoa màu nào trồng xuống cạnh bên cũng lụi tàn và chết úa dần. Trong khi cái
ăn hàng ngày lại bức bách quá. Không ít hộ dân phải đành hạ bỏ cây cao su cho
khoai củ quay vòng chống đói. Chị Ngà lại có hướng lựa chọn khác, bằng cách
“thắt lưng buộc bụng” để chăn nuôi vài đàn gà nhỏ, con heo “tẻ”… Chừng đôi năm
sau gắng sức “vỡ hóa” thêm được 08 sào đất mới để luân canh các loài cây lương
thực bên cạnh với việc ổn định cây điều, rồi lấy đó “làm nền” quyết lòng giữ
lại cây “su”. Lúc túng bấn cùng cực, gia đình chị lao thẳng về phía rừng thẳm
suối sâu đi kiếm măng, chặt ống lồ ô…bán đổi gạo. Cuộc sống đắp đổi qua ngày để
nuôi chí vượt nghèo, đến năm 1997 khi phân lại bản đồ địa chính, diện tích đất
01 ha trồng cao su của hộ Nguyễn Thị Ngà từ thuộc địa giới xã Đức Phú ( Tánh
Linh, Bình Thuận ) “chuyển giao” sang xã Đoàn Kết (huyện Đạ Hoai, Lâm Đồng).
Nhờ vậy hộ gia đình chị Ngà đương nhiên được chuyển hộ khẩu theo diện tích đất
“su” này.
Nhìn lại quãng đường mười mấy năm thăng trầm,
rừng cao su chị Nguyễn Thị Ngà mới được “vuông bằng sắc cạnh”. Giờ đây dạo thăm
rừng này phải trọn cả buổi mới bước chân ra khỏi ranh giới; nhưng rồi lại tiếp
tục lạc vào rừng cao khu của hộ kế bên. Và cứ thế đi nữa sẽ đặt chân đến khoảnh
rừng cao su những chủ nhân khác, nối tiếp nhau giáp với những cánh rừng cao su
bạt ngàn của đất Bình Thuận. Phó chủ tịch xã CaoViết Xuân như không biết mệt:
“Diện tích cao su kinh doanh của xã Đoàn Kết chưa nhiều - chỉ khoảng 8 ha với
“dăm” hộ dân nguyên gốc từ Bình Thuận chuyển sang; mỗi hộ lặng lẽ giữ lại được
từ 01 ha đến 02 ha mà thôi. Mười mấy năm rồi, người ta mới thực sự cầm nắm
được“vàng trắng” từ vườn cao su của mình…”
*LỘ THIÊN…“KHO BÁU”
Đang
mới đầu tháng 9 âm lịch. Nơi “vàng trắng” 08 ha ở xã Đoàn Kết còn hơn tháng nữa
cây đến độ đồng loạt vặn mình trút lá hết mùa đông sẽ trở lại chu kỳ khai thác
mới. Mỗi năm “su” cho “nhựa” liên tục đến 9 tháng. “Kho báu” cây “su” tự trồng
và chăm sóc của hộ Nguyễn Thị Ngà năm nay sắp bước sang tuổi 13, đã thu hoạch
hơn 4 năm qua. Hiện giá thời điểm này với khoảng 7.000 đồng mỗi ký cao su cô
đông, chỉ cần một công lao động chị Ngà mỗi ngày thu bán được từ 250 ngàn đồng
đến 300 ngàn đồng. “Bán mủ cao su sướng lắm. Mủ nước hay mủ cô đông chở bằng xe
máy chạy khoảng 02 cây số là đến được điểm thu mua thuộc tỉnh Bình Thuận. Theo
giá thị trường, người mua đặt lên cân và nhân ra thành tiền đưa liền cho mình
! ”-Chị Ngà khoe.
Anh
Phan Văn Nhị, Chủ tịch Hội Nông dân xã Đoàn Kết “diễn giải” thêm : Cây cao su
trồng “đạt” ở đây chỉ 6 năm sau là bắt đầu cạo “mủ bói”. Còn bình thường thì
cũng không quá 8 năm. Thu hoạch mủ cao su đâu phải oằn lưng quần quật quên cả
ngày đêm như các loại cây trồng khác. Hàng ngày cầm một con dao nhỏ bằng ngón
tay ra rừng cao su, mỗi lao động có thể cạo “vàng” chảy xuống từng chén từ hơn
400 cây. Mỗi buổi nghỉ ngơi giữa ca phải đôi, ba tiếng đồng hồ. Chờ độ vào buổi
trưa đứng bóng và buổi chiều chạng vạng, trở ra gom “vàng” hết vào những can
nhựa ( mủ nước) hoặc giỏ đan dày bằng mây, tre nứa ( mủ đông), đem đi bán đến
đâu lấy tiền mặt đến đó. Cách đây vài tháng về trước, mủ cao su được giá mỗi ký
từ 12 ngàn đồng trở lên, chị Ngà và nhiều hộ khác có vườn cao su “ẩn tích” ấy,
đã thu về mỗi ngày hơn bạc triệu đồng là phổ biến. Đến đây, anh Cao Viết Xuân,
Phó chủ tịch xã Đoàn Kết đưa ra phép so sánh thật nhanh : Tính quân bình 01 ha
cây “su” năm 2005 thu được từ 46 triệu đồng đến 48 triệu đồng; trong khi cây
điều tốt nhất chỉ thu về từ 12 triệu đồng đến 14 triệu đồng. Ước tính năm 2006
này, con số tương ứng với cây “su” sẽ
hơn 50 triệu đồng; còn cây điều thì mất mùa và…“đứng yên” tại chỗ !
*BAO
GIỜ…“RỪNG VÀNG” ?
Năm
2002, trong lúc chờ “động thái” chính thức của các cơ quan chuyên ngành, hộ Đinh Thanh Hường ở xã này mạnh dạn tự mua
giống cao su về chuyển đổi cơ cấu cây trồng trên vườn đất của mình. Anh chọn
mua giống ươm từ hom cây với giá “đổ đồng” mỗi mầm là 2.000 đồng. Năm đầu tiên
trồng 350 cây trên 7 sào đất. Năm thứ 2 tiếp tục trồng 550 cây trên 01 ha đất.
Hai năm đầu, cao su sống “xen canh” với cây điều. Đến năm thứ 3, điều phải chặt
bỏ để nhường lại không gian cho “su”. Theo ông Hường, cao su là một loài cây
sống tương đối “dễ tính”, chỉ bón phân lân, u rê, NPK, SA…mỗi năm hai lần vào
đầu và cuối mùa mưa. Khi cây đến tuổi thứ 3 trở đi lượng phân giảm xuống còn
mỗi năm một lần. Địa hình độ dốc không lớn như xã Đoàn Kết tỏ ra rất thích hợp
với “su”. Ông Hường nói chắc : “Hơn bốn năm rồi, tôi không tốn một đồng tiền
nào để mua thuốc bảo vệ thực vật. Cũng không cần phải tưới tắm gì cả. Chừng hai
năm nữa “su” của tôi sẽ thu “vàng bói”. Năm kế tiếp sau đó sẽ thu hồi vốn đầu
tư. Và năm sau nữa trở đi chỉ còn cách…tích lũy làm giàu !”
Thực
tế từ năm 2002 đến nay, trăn trở với cái nghèo khó đeo đẳng, người dân xã Đoàn
Kết tự bảo nhau chuyển đổi gần 50 ha cao su trồng mới. Người có diện tích ít
nhất cũng gần 02 ha; người nhiều nhất đã lên đến 05 ha. Trong đó riêng đồng bào
dân tộc thiểu số bản địa đã chăm bón khá tốt trên 10 ha. Hộ K’Minh đã trồng
“diện rộng” với 02 ha cho biết: “Thấy người ta trồng ra sao mình cứ trồng y như
vậy. Tất thảy vừa trồng gần 950 cây mới qua bốn tháng đã lên xanh ba tầng lá,
cao gần một mét rồi đó!” Vợ chồng K’Minh hiện có thu nhập 2,4 ha trồng điều và
cà phê, tạm đủ trang trải sinh hoạt hàng ngày và nuôi ba người con đang ăn học
từ lớp ba đến lớp 11. Vợ K’Minh hy vọng: “Vợ chồng tôi sẽ chịu khó chăm sóc 02
ha cao su cho thật xanh tươi để sau này có chút hồi môn chia cho con…”
Hy
vọng của vợ chồng K’Minh giúp tôi phác thảo rộng hơn về “thủ phủ vàng trắng”
của Lâm Đồng khởi nguồn từ vùng đất xã Đoàn Kết, huyện Đạ Huoai. Có điều đến
nay vẫn chưa có một cuộc hội thảo khoa học nào; chưa có một chương trình khuyến
nông, chuyển giao khoa học kỷ thuật nào; chưa có chương trình trợ giúp vốn vay
nào…về phát triển cây cao su về đây. Lại “tự lực” chính quyền xã Đoàn Kết trong
năm 2007 đưa ra chỉ tiêu khuyến khích bà con nông dân thay thế khoảng 100 ha từ
cây điều già cỗi sang trồng cây cao su. Con số này chưa phải là con số đột phá,
tăng tốc ở một xã còn hơn 50% số hộ nghèo khó này.
Đạ
Huoai - Đà Lạt cuối tháng 10/2006