Thứ Bảy, 26 tháng 1, 2013

“Người tiều phu” và con cá hồi


VĂN VIỆT
Hơn hai mươi năm làm “người tiều phu” dưới chân núi Quảng Thừa, Đà Lạt, anh Phạm Văn Đa (sinh năm 1959) mới biết mình đang sinh sống bên con suối nước lạnh nuôi được con cá hồi. Nhờ con cá hồi đã mở toang cánh cửa để anh bước vào đời tỷ phú.

LẬP VƯỜN NƠI HEO HÚT
Bây giờ khu vực dân cư Quảng Thừa là tổ dân phố 93, khu phố 7, phường 4, thành phố Đà Lạt; cách khu trung tâm thành phố này chưa đầy mười cây số nhưng đường nhựa vẫn chưa đến nơi. Nếu ngược về hai mươi năm trước thì Quảng Thừa là khoảng không gian heo hút với lác đác vài hộ nông dân xâm canh làm vườn ven thung lũng sâu của núi. Sáng đi chiều tối về, người lao động xâm canh phải băng qua bùng nhùng cỏ tranh và um tùm cây bụi tạp. Với anh Phạm Văn Đa thì chỉ sau vài lần đi tiền trạm đã quyết định cùng vợ và hai con nhỏ ở lại định cư lâu dài. Anh chọn nơi đầu nguồn con suối để thưng lên vách tre nứa làm nhà ở. Dẫu không điện có thắp sáng, không có nước máy sinh hoạt, không có đường giao thông dân sinh… nhưng Quảng Thừa với gia đình anh Đa là địa hình khá lý tưởng. Đất mới Quảng Thừa nguyên sơ với những quả đồi, con suối, rừng cây ngày càng trở nên gắn bó mật thiết trong cuộc sống lao động gia đình anh Phạm Văn Đa lúc nào không hay.
Nơi thiên đường du lịch mộng mơ Đà Lạt là rừng trong phố và phố trong rừng với phần lớn thảm thực vật phủ xanh bởi các loài cây thông ba lá đặc hữu, sinh trưởng ở độ cao trung bình 1.500 m so với mặt biển. Riêng đỉnh núi Quảng Thừa có độ cao lên đến từ 1.600 m đến 1.700m, bên cạnh cây thông là một quần thể cây lá rộng còn lại khá nhiều. Dưới chân núi Quảng Thừa trải dài cả một khu vực thung lũng tương đối bằng phẳng chạy uốn lượn đến lòng hồ của khu du lịch sinh thái Tuyền Lâm. Trong thung lũng này, gia đình anh Đa sang nhượng lại một thửa đất rộng khoảng 3 ha nhưng bấy giờ gần như hoang hóa hoàn toàn. Vợ chồng anh phải quần quật ngày đêm để cải tạo đất mới. 
Mồ hôi mặn chát đổ xuống sau nhiều năm đã dần hình thành từng luống đất ngay hàng thẳng lối. Trên đất mỗi gốc cây hồng, mỗi gốc cây cà phê, mỗi cây hoa, mỗi mầm rau xanh…đều được nâng niu cho mỗi sợ rễ bám chặt xuống đất. Dành dụm trong khoảng thời gian ngơi nghỉ tay cuốc tay liềm, vợ chồng anh Đa cặm cụi nhặt từng cành cây rừng ngã đổ, lượm mót từng lóng củi để làm chất đốt cho sinh hoạt và…mở rộng chăn nuôi. Hai con vật nuôi được gia đình anh Đa duy trì và phát triển kinh tế gia đình từ đó đến nay là gà vườn và heo vườn.
Định hình được mô hình vườn – chuồng lại tiếp tục việc đào ao nuôi cá nước ngọt. Đón dòng nước mát từ đầu nguồn đỉnh núi Quảng Thừa xuống ao đào ngăn dòng lại, hàng ngàn con rô phi, mè, trắm… từ lứa này đến lứa khác vụt lớn nhanh. Khép kín một quy trình sản xuất và chăn nuôi, vợ chồng anh Phạm Văn Đa có được cuộc sống no đủ quanh năm, xây được nhà kiên cố, bắt điện lưới về thắp sáng. Đã qua rồi cảnh phập phồng ăn bữa mai lại lo bữa chiều. Hai người con của vợ chồng anh ( một trai, một gái) đã trưởng thành, có ngành nghề ổn định. Anh Đa tâm sự: “ Nhìn lại đã hai mươi năm, vợ chồng tôi nhờ ơn đất Quảng Thừa đã ban tặng hoa lợi cho cuộc sống đi lên  Nhớ ngày đầu làm “người tiều phu” giữa rừng Quảng Thừa, vợ chồng tôi đâu giám mơ lớn có được như ngày hôm nay …
TRỜI CHO “CÁ VÀNG”
Vợ chồng anh Phạm Văn Đa đang tâm đắc với thành quả vườn – ao -chuồng tạo lập hai mươi năm thì một ngày giữa năm 2006 bỗng được chọn nuôi thí điểm cá vân hồi. Các chuyên gia nuôi trồng thủy sản của Viện Nghiên cứu nuôi trồng thủy sản Việt Nam ( đặt trạm nghiên cứu tại xã Hiệp Thạnh, Lâm Đồng) kết luận rằng trang trại của vợ chồng anh Phạm Văn Đa nằm ở vị trí đầu nguồn con suối nước lạnh Quảng Thừa, rất ưu đãi để khoanh nuôi cá vân hồi có nguồn gốc từ châu Au. Đây là con suối ôn đới độc nhất vô nhị ở Đà Lạt có nguồn nước khá tinh khiết chảy ra từ vách đá, biên độ nhiệt dao động từ 10- 20 độ C. Vậy là trời lại tiếp tục cho lộc nuôi “cá vàng”,  vợ chồng anh Phạm Văn Đa mừng vui không kể xiết.
Được sự hướng dẫn trực tiếp của Trung tâm nuôi trồng cá ngọt Lâm Đồng, anh Phạm Văn Đa xây dựng một chiếc ao rộng 350 mét vuông để nuôi gần 300 con cá hồi trong trang trại của mình. Bản tính cần cù chịu khó, ham học hỏi, lại quen thuộc với công việc bên suối bên rừng nên anh Phạm Văn Đa tiếp cận rất nhanh với việc nuôi thả cá nước lạnh. Chỉ sau 3 tháng nuôi sản phẩm cá hồi vân đầu tay, anh Đa đã nuôi tăng trọng đàn cá trung bình mỗi con nặng từ 0,7kg đến 1,2 kg. So với các thông số kỹ thuật thì kết quả nuôi cá vân hồi thử nghiệm của anh Đa đã đạt thành công khá cao. Bước sang đầu tháng 12/2007, anh Phạm Văn Đa chính thức khoanh nuôi cá hồi thương phẩm trong một chiếc ao xây dựng chuyên biệt với số lượng 1.500 con. Chi phí đầu tư khoảng hơn 50 triệu đồng lắp đặt đường ống dẫn nước chuẩn sạch từ đỉnh núi Quảng Thừa xuống hồ lắng trước khi dẫn vào hồ nuôi rộng 350 mét vuông. Và vài chục triệu xây hồ, che bạt ngăn bớt mưa bớt nắng nữa. Nhờ tuân thủ theo quy trình và kỹ thuật nuôi nghiêm ngặt đến cuối tháng 4/2008, đàn cá hồi của anh Đa sinh trưởng đạt tỉ lệ khoảng 90%; cân nặng mỗi con trên dưới 01 kg.
Anh Đa cho biết, yêu cầu bắt buộc của việc nuôi cá hồi vân là phải giữ cho thật trong lành về nguồn nước thiên nhiên. Nước luân chuyển từ suối lạnh hàng ngày ra vào trong ao phải qua hệ thống ống dẫn nước và bể gạn lọc tạp chất thật kỹ lưỡng. Môi trường được bảo vệ khoáng đạt và giữ được độ ẩm cho phép. Nhiệt độ không được phép đến ngưỡng 20 độ C. Thức ăn cho cá hồi là thức ăn tuyệt đối phải do cơ quan chuyên ngành thủy sản Việt Nam cung cấp. Thường lệ hàng ngày cho cá ăn 4 lần (2 lần buổi sáng vào độ 6 giờ và 8 giờ. 01 lần buổi trưa vào độ 11 giờ đến 12 giờ. 01 lần buổi chiều tối vào độ từ 5 giờ đến 6 giờ).
Theo thời gian sinh trưởng thì trong tháng 6/2008, trang trại anh Phạm Văn Đa thu hoạch lứa cá hồi vân thương phẩm đầu tiên. Đây là loài cá thương phẩm cao cấp; hiện lượng cung đang rất khan hiếm so với nhu cầu tiêu dùng từ thị trường trong nước và kể cả thị trường xuất khẩu. Giá bán của cá hồi luôn tăng tỉ lệ thuận mặt bằng giá chung của thị trường. Anh Đa chỉ tính khiêm tốn 01 con cá hồi xuất bán trong ao của anh nặng từ 01 kg đến 1,5 kg. Đổ đồng mỗi con cá bán ra đạt lãi khoảng 50 ngàn đồng thì trong diện tích 350 mét vuông ao của anh Đa sẽ đạt tổng lãi khoảng 70 triệu đồng. Nuôi mỗi năm hai lứa, số tiền lãi sẽ nhân đôi thành 140 triệu đồng. Sau lứa bán cá hồi này, dự kiến anh Phạm Văn Đa sẽ mở rộng diện tích mặt nước nuôi theo quy mô trang trại diện tích khoảng 5 ngàn mét vuông; rộng hơn gấp 13 lần so với quy mô hiện có. Và tất nhiên lợi nhuận sẽ theo đó tăng lên gấp 13 lần. Tính ra chỉ cần 10 ngàn mét vuông diện tích mặt nước nuôi cá hồi mỗi năm, anh Phạm Văn Đa thu lãi quân bình là hơn 3 tỷ đồng.
Trang trại rộng 3 ha đầu nguồn con suối nước lạnh Quảng Thừa của anh Phạm Văn Đa có khả năng phát triển nuôi hàng chục ngàn con cá hồi hàng năm. Thiên nhiên ưu đãi có dòng suối lạnh Quảng Thừa nuôi được “cá vàng” nên cần phải thực sự có ý thức, thái độ quý trọng để bảo vệ giữ gìn. Mà muốn giữ được dòng “suối vàng” thì phải có những giải pháp hữu hiệu để bảo vệ và phát triển nguồn vốn “rừng vàng”. 
Bởi vậy gia đình anh Phạm Văn Đa đang lập dự án xin nhà nước cho phép được trực tiếp nhận quản lý nuôi rừng, bảo vệ rừng và trồng rừng mới để giữ đủ nguồn nước lạnh trên tổng diện tích rừng trên 34ha thuộc hai tiểu khu 157A và 157B do Ban Quản lý rừng đặc dụng Lâm Viên quản lý. Khi được giao rừng và “sở hữu” được nguồn nước suối lạnh ổn định, anh Phạm Văn Đa sẽ có điều kiện để “chuyển giao công nghệ” nuôi cá hồi vân đến khoảng 10 hộ nông dân lập vườn ổn định dọc theo hạ nguồn con suối Quảng Thừa; mỗi hộ có thể phát triển trong ao vườn nhà mình đến 10 ngàn con cá hồi.
Đà Lạt tháng 4/2008