Phóng sự VĂN VIỆT
Không còn lâu nữa,
hàng trăm cặp uyên ương sẽ trao nhau những chiếc vòng cầu hôn trong Lễ Festival
hoa Đà Lạt 2005 do hai người Chu Ru ở thôn Ma Đanh ( xã Tu Tra, Đơn Dương) chế
tác. Vậy là người ta mới vội nghĩ bao năm vô tình bay vụt qua, nghề kim hoàn
của đồng bào thiểu số Lâm Đồng cứ rơi rụng dần rồi chìm vào quên lãng. Bây giờ
biết khôi phục thế nào đây?
Đường sá đã lâu vào thôn Ma Đanh không còn khó khăn nữa. Đá
cấp phối nén chặt nền đường dẫn lối chạy khắp những dãy sân nhà dân bản. Chưa
đến giờ trưa đứng bóng nhưng không gian như ngưng đọng lại, yên bình và lặng
lẽ. Người dân làng đã lên rẫy, xuống đồng ruộng hầu hết. Ngày hè lũ con nít
càng líu ríu quấn lấy chân người lớn vắng nhà đi sớm về trưa. Ma Quin, người
phụ nữ có con mọn đang ẵm bồng trên tay nên phải quanh quẩn ở nhà. Nghe hỏi,
chị bảo: “Giờ này muốn gặp được người dân nào ở nhà cũng không dễ đâu, nếu
không hẹn trước. Huống chi nói đến tìm được ông thợ đúc nhẫn bạc…” Dẫu vậy, tôi
cứ nấn ná chờ đợi. Bỗng nhiên qua chuyện kể chiếc vòng cầu hôn từ Ma Quin ăm ắp
lên những nỗi niềm bâng khuâng, canh cánh với sự khắc nghiệt của thời gian…
·
Ngày ấy…xa rồi
Ma Quin là một trong bốn chị em gái trong một gia đình đi
cưới chồng có phong phú lễ vật cầu hôn là những chiếc nhẫn bạc xinh xinh. Hồi
đó xa rồi-phải hơn mười năm trở về trước, Ma Quin rủng rỉnh trong chiếc hộp
đựng 17 chiếc nhẫn bạc-kiểu dáng khác nhau; có cả kiểu trang sức đàn ông và
kiểu trang sức đàn bà-trong một buổi lễ thật trang trọng. Dưới sự chứng kiến
của hai họ, Ma Quin nhận người thanh niên ấy làm chồng (và ngược lại) bằng nghi
thức trao-nhận đeo nhẫn cho nhau. Bên đàng trai nhận các lễ vật, trong đó có 15
chiếc nhẫn bạc còn lại giành đeo trên tay cha mẹ, người thân thích họ hàng…là
thể hiện sự đồng thuận cho bên đàng gái rước con trai mình về làm con rể. -Ma
Quin nhớ lại: “Nhưng số nhẫn bạc mà tôi đi cưới chồng còn ít hơn 3 người chị
gái của tôi trước đó nhiều. Các chị mỗi người từ 20 chiếc trở lên hết đó !” Nếu
con trai về nhà vợ thì có cần nhẫn bạc mang theo không ? Ma Quin nói luôn :“Bắt
buộc cũng phải có chứ. Ít nhất là một chiếc để tặng cho vợ mình làm bằng chứng
với lới hứa sống chung thủy bên nhau trọn đời !”
Lời tâm sự của Ma Quin giúp tôi hình dung phần nào về phong
tục, tập quán cưới hỏi qua việc trao-nhận những chiếc vòng cầu hôn đeo vào
trong những ngón tay thật đẹp, thật gắn kết. Nhìn rộng hơn, chiều sâu hơn-theo
giảng nghĩa của những già làng người Chu Ru- nó mang một yếu tố tinh thần rất
đặc trưng trong tình yêu đôi lứa; đồng thời ràng buộc trách nhiệm của vợ chồng
bất khả phân ly. Thế còn yếu tố vật chất ? Câu hỏi đột nhiên, hơi khô khốc của
tôi không làm cho Ma Quin gợn một chút suy tính gì. Chị nhanh nhẩu: “Trung bình
mỗi chiếc nhẫn cầu hôn loại thông dụng mua chỉ trên dưới 20 kg lúa rẫy. Ai cũng
có thể sắm được đôi ba chiếc cho con gái mình đi lấy chồng !”
Mong muốn được nghe lời của “một nửa bên kia”, tôi dẫn lại
câu chuyện của Ma Quin với Ja Toa, một trung niên tuổi bốn mươi ở cùng làng
buôn Ma Đanh. Nhớ lại ngày ấy…xa rồi, Ja Toa như đang còn rạo rực tận hưởng
giây phút hạnh phúc đón nhận những…30 chiếc vòng cầu hôn từ người vợ yêu trao
gửi. Mười chín năm trước-Ja Toa về làm rể nhà người sau khi cha mẹ, họ hàng của
mình sẵn lòng nhận lấy những lễ vật này. Thoáng chốc con cái Ja Toa đủ bề lớn
khôn, nhưng trên ngón tay áp út vẫn tươi nguyên chiếc nhẫn cưới năm xưa. “Nó là
một vật chứng nhắc nhở tôi phải làm tròn hơn bổn phận của một người chồng,
người cha trong nhà !”-Ja Toa tự vấn mình. Công việc của anh hiện tại là cán bộ
địa chính của xã Tu Tra. Và tôi cũng được biết rằng, bất kỳ lý do gì mà bên này
trả lại chiếc nhẫn cưới cho bên kia thì phải chấp nhận lệ làng…phạt một trâu !
Chưa hết còn phải gánh chịu năm này qua tháng khác trước miệng đời thị phi là
kẻ bội nghĩa, vong tình; mang tiếng không đẹp đến thanh danh cả họ tộc nữa…
·
Nỗi
niềm người thợ già
Buôn
Ma Đanh có nghề truyền thống chế tác nhẫn bạc duy nhất ở xã Tu Tra. Những người
tìm được bạn đời tâm đầu ý hợp như Ja Toa, Ma Quin…bao giờ cũng rất trân trọng
những kỷ vật thiêng liêng ấy. Không chỉ người Ma Đanh mua nhẫn bạc Ma Đanh mà
các buôn làng người Chu Ru trong và
ngoài xã cũng lặn lội đến Ma Đanh tìm mua cho ngày vui của mình. Nhưng đó là
thời đã qua xa lắm. Từ làng nghề kim hoàn nhẫn bạc Ma Đanh nay chỉ còn sót lại
hai người thợ: một già một trẻ. Ông già tên Ja Quân, tuổi đã “tám sáu”-dù đã
hết “tuổi trời” nhưng còn sống ngày nào, ông luôn gắng sức truyền giữ nghề cho
người con rể. “Chỉ còn đúc mỗi ngày năm, ba chiếc thôi. Đúc cho con cháu trong
dòng tộc là chính. Người làng mua nhẫn cứ thưa thớt dần đi !” Nhớ về tuổi thơ,
ông bồi hồi: Mới năm lên mười, ông đã được thân phụ dạy nghề cho. Học đến đâu
cảm giác thích thú đến đó, năm mười ba tuổi tay nghề đã thành thạo; tự chế ra
các loại nhẫn bán “lưu động” đổi gạo, bắp nhiều nơi trong huyện Đơn Dương, Đức
Trọng. Nhưng đến lúc…mười mấy năm nay, tuổi cao rồi, sức tàn lực kiệt, đâu còn
dẻo dai để thả bước đi bán kim hoàn nơi xa nữa.
Đi
vào phía buồng trong, cụ già Ja Quân đem ra những dụng cụ đúc bạc tự chế trông
là lạ làm sao. Chiếc nồi nấu chảy bạc vừa bằng ngón chân cái, làm bởi đất sét
và…phân trâu. Khuôn đúc bạc nặn ra từ nguyên liệu sáp ong, chỉ dài hơn mười
phân, hình ống tròn to hơn ngón tay cái một chút. Trên miệng phễu đính chặt một
mảnh nan tre làm nền cho dòng bạc nóng chảy đổ xuống. Dưới cùng đường ống là 3
ô tròn đều theo kích cỡ đường kính trung bình của vòng ngón tay người bình
thường. Già Quân đưa tôi ra “lò đúc” bên góc sân nhà. Đó là một căn chòi hình
vuông chừng bốn mét vuông, che chắn cũ kỹ những tấm bao tời. Lắp đặt chiếc bếp
“mô phỏng” theo “thiết kế” của các “lò rèn”. Hai ống nhôm to như hai bắp chân
dựng cao hơn nửa thước. Hai thanh gỗ quấn chặt lớp vải hai đầu thành “bít tông
” vận hành lên xuống bằng tay, tạo ra không khí dẫn vào bếp lửa. Già thao tác
thuần thục, chuẩn xác từng công đoạn nhỏ, từ nấu chảy bạc đến đổ bạc vào khuôn đúc.
Già giải thích: Củi đun phải chọn đúng củi siêu
( lọai cây tạp, bụi rậm nhưng rất khó tìm). Phải lấy đất lở trong mùa
mưa để nung, trộn với phân con trâu đực trên dưới hai tuổi, chế thành những
chiếc nồi chịu những độ nóng thay đổi của lửa. “Nhớ quạt lửa tăng giảm vừa
phải; chọn đúng lúc độ nóng chảy của bạc là đổ vào đúc ngay. Làm chậm một chút,
bạc sẽ cháy, coi như bỏ đi !” –Già Quân tiết lộ. Mới hay, căn chòi đúc bạc phải
nằm cách biệt với sinh hoạt gia đình, giúp người thợ đúc tập trung tâm trí hơn khi
vào việc. Trong căn chòi này hồi đầu tháng rồi, già Ja Quân cho “ra lò” 10
chiếc nhẫn đủ kiểu hoa văn theo đặt hàng của một vị khách từ Sài Gòn. “Tôi phải
làm vì con rể tôi cứ chê ít, bỏ đi làm vườn. Không biết mai sau, chúng nó có giữ được nghề này…” Quả là day dứt cho nỗi
niềm của già làng Ja Quân !
·
Tìm
lại…bao giờ?
Nhưng
dẫu sao thì đã có những tín hiệu khả quan phát đi từ người thợ bạc trẻ nơi Ma
Đanh tên là Ja Tuất. Năm nay 26 tuổi, Ja Tuất học nghề từ người cậu họ của già
làng Ja Quân từ 6 năm về trước. Học say sưa, bền chí. Người thầy trước khi qua
đời đã kịp truyền lại tất cả những bí quyết nghề cho Ja Tuất. Song ban đầu cũng
không thóat khỏi cảnh “chợ chiều” như vòng nhẫn của già làng Ja Quân, mỗi tháng
Ja Tuất “tự sản, tự tiêu” chỉ quá hơn trăm chiếc. Đến khi tỉnh và huyện xuống
đặt hàng 500 chiếc nhẫn chế tác mới, Ja Tuất mới thực sự mừng lắm, thực sự lấy
thêm nhiều lạc quan, quyết tâm theo đuổi nghề này đến trọn đường.
Trở
lại gặp lãnh đạo xã Tu Tra đều nhận được sự “đồng điệu” rằng phải giữ; phải
khôi phục; phải phát triển làng nghề đúc những chiếc vòng nhẫn bạc dùng khi cầu
hôn-trước hết là ở thôn Ma Đanh; sau đó tìm cách thu hút nhanh hơn “khách hàng
truyền thống” ở những buôn làng lân cận. Vậy bao giờ sẽ…? Bí thư xã Trần Quang
Tuấn tiếp nhanh lời của tôi: “Rất nhiều nhã ý quan tâm từ huyện lên tỉnh đến
các địa phương bạn đưa ra nhằm trưng bày, quảng bá, tìm thị trường tiêu
thụ..cho sản phẩm nhẫn bạc của Tu Tra.
Chúng tôi đang tích cực xác lập mối quan
hệ những nơi này, khi có kết quả sẽ chính thức động viên bà con phát triển lại
nghề, nhưng cũng đồng thời khuyên họ hãy sử dụng nhiều hơn những sản phẩm của
nghề mình, góp phần bảo tồn bản sắc tốt đẹp ngàn đời của dân tộc mình …”
Chiếc
vòng cầu hôn từ buôn Ma Đanh hẻo lánh bắt đầu ra mắt quan khách trong và ngoài
nước giữa ngày lễ hội du lịch lớn nhất Đà Lạt-niềm tự hào không riêng với đồng
bào thiểu số ở Đơn Dương. Từ đây không dừng lại ở ý nghĩa này, nó sẽ trở thành
sản phẩm thủ công mỹ nghệ độc đáo cho ngành du lịch nơi cao nguyên Lâm Đồng;
nơi thiên đường du lịch Đà Lạt…Cứ mường tượng đến ngày đó khiến trong tôi lại
khấp khởi, rộn ràng…
Đơn
Dương-Đà Lạt tháng 7-2005