Thứ Bảy, 7 tháng 7, 2012

Người thiết kế mô hình “xanh và tươi” ở Trường Sa

Ghi chép VĂN VIỆT
Liên tục gần 6 năm với 6 chuyến hải trình nghiên cứu, khảo nghiệm về khí hậu, thổ nhưỡng trên quần đảo Trường Sa, Tiến sĩ Ngô Quang Vinh, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu khoai tây, rau và hoa Đà Lạt, đã cùng với nhiều nhà khoa học trong nước trồng thành công hàng loạt giống rau xanh và nuôi sinh sản nhiều giống vật nuôi trên 7 đảo lớn, nhỏ, mở ra hy vọng về khả năng tự túc tại chỗ nhu cầu thực phẩm “xanh và tươi” hàng ngày của quân và dân giữa vùng biển biên cương của Tổ Quốc.
Tôi gặp Tiến sĩ Ngô Quang Vinh vào một sáng tháng sáu tại văn phòng làm việc của Trung tâm Nghiên cứu khoai tây, rau và hoa Đà Lạt. Anh vừa trở về từ quần đảo Trường Sa sau hải trình nửa tháng kiểm tra, đánh giá về kỹ thuật xây dựng những mô hình “xanh và tươi” ở đây. Đây là những công trình thuộc Dự án “Thử nghiệm một số giống cây trồng và vật nuôi ở quần đảo Trường Sa” của Viện Khoa học kỹ thuật nông nghiệp miền Nam ( Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) do anh làm Chủ nhiệm. Đồng hành với anh là mười nhà khoa học phụ trách các chuyên ngành trong Viện như Trung tâm Công nghệ sinh học, Trung tâm Nghiên cứu khoai tây, rau và hoa Đà Lạt (do anh làm giám đốc), Phòng Nghiên cứu di truyền vật nuôi, Phòng Nghiên cứu dinh dưỡng và thức ăn chăn nuôi, Phòng Nghiên cứu kỹ thuật canh tác. Đứng ở vị trí là Phó Viện trưởng Viện Khoa học kỹ thuật nông nghiệp miền Nam, Tiến sĩ Ngô Quang Vinh tâm sự: “ Nói đến Trường Sa, mỗi người Việt Nam đều muốn góp sức mình cùng xây dựng và bảo vệ, cùng mong muốn cán bộ chiến sĩ và đồng bào ta ở đó luôn có điều kiện sống và làm việc tốt nhất. Với tình cảm và trách nhiệm của ngành kỹ thuật nông nghiệp, tôi và đồng nghiệp của mình luôn động viên nhau vượt qua mọi khó khăn, thách thức, tích cực đào sâu nghiên cứu, tìm ra những giải pháp khả thi nhất để phát triển cây trồng, vật nuôi, nâng cao chất lượng bữa ăn có đủ “chất xanh, chất tươi” hàng ngày cho bộ đội, nhân dân ở nơi vùng biển đảo tuyến đầu Tổ Quốc giữa thời tiết quanh năm khắc nghiệt này… ”  
 Miệt mài qua 6 chuyến hải trình “khám phá” dài ngày của mình ra quần đảo Trường Sa, Tiến sĩ Ngô Quang Vinh và đồng nghiệp đã “đo” được những số liệu khoa học rất giá trị. Đó là tất cả phần đất nổi các đảo trên quần đảo Trường Sa đều chỉ là xác san hô và cát. Các đảo nổi như Trường Sa Lớn, Song Tử Tây, mỗi đảo có từ 7- 8 giếng đào nước lợ, dùng để tắm giặt và tưới các loại rau muống, mùng tơi, bầu, mướp trồng trực tiếp trên bề mặt đất cát và san hô của đảo và trồng trực tiếp trong khay chậu. Tại các đảo chìm, tổng dung tích các bể chứa nước mưa ở mỗi đảo từ 90- 100 khối, chia phần mỗi năm dùng sinh hoạt cho 13- 15 người và phần dùng để tưới rau.
Rau trồng trên mặt đất được chắn sóng biển bằng những bức tường xây cao khoảng 1,2 mét. Rau trồng trong chậu được chắn sóng biển bằng những vật liệu tạm như mái tôn, tấm ván, tấm nhựa…Sản lượng rau xanh hàng năm ở đây đạt từ 120 – 130 kg/người/năm, nhưng rau mùa mưa chỉ đáp ứng bằng 30- 50% so với mùa khô. Trong khi mùa mưa kéo dài đến 9 tháng ( từ tháng 5 đến tháng 1 năm sau), sóng biển dâng cao, gió lớn mang hơi nước muối mặn hàng ngày tràn vào đảo, làm rau xanh dập nát, hư hại nhiều. Ngoài ra trên đảo nổi còn đã và đang phủ xanh những cây trồng khác như bàng vuông, bàng thường, phong ba, cây tra và có thêm cây dừa, cây nhàu, đu đủ và chuối từ đất liền đưa ra trồng...Ở các đảo chìm của quần đảo Trường Sa như Đá Đông, Đá Lớn, Len Đao, Phan Vinh B, bộ đội trồng rau xanh trên khay đất đặt xung quanh hành lang nhà xây ở, gồm các loại rau như rau muống chiếm 70- 80% sản lượng; còn lại là các loại rau mồng tơi, cải củ ăn non, cải xanh, rau bầu đất, me đất, giá đỗ, bốn bên quây che hơi nước mặn, gió mặn bằng những tấm nhựa, tấm ván sơ sài. Mỗi đảo ở đây sản lượng rau xanh bình quân đạt khoảng 10kg/tháng, trong đó mùa mưa kéo dài 9 tháng trong năm, sản lượng chỉ đạt từ 3- 4kg/tháng.    
Từ những căn cứ dữ liệu “tích lũy” được qua những chuyến “du khảo” ở Trường Sa, Tiến sĩ Ngô Quang Vinh ưu tư: “ Thực trạng trồng rau ở Trường Sa với những hình thức che chắn sóng biển và mưa biển còn quá thủ công, trong 9 tháng mùa mưa hàng năm, phần lớn rau bị nhiễm mặn thối rễ và dập lá, nhất là thời điểm mưa dầm từ tháng 6 đến tháng 9. Với lớp đất mặt ở các đảo nổi là lớp cát san hô rất thô nên khả năng giữ nước, giữ độ dinh dưỡng trồng rau rất hạn chế. Với đất trồng rau trong khay chậu chủ yếu được mang từ đất liền ra đảo, lại nhanh chóng nghèo kiệt “độ màu” vì chưa có những biện pháp tăng cường chất hữu cơ phù hợp, kịp thời….Hướng suy nghĩ của tôi và đồng nghiệp lúc này là phải tìm ra những giải pháp kỹ thuật khả thi nhất để tăng cường thâm canh, nâng cao năng suất rau xanh trên từng mét vuông mặt đất, mét vuông khay đất quý hiếm ở Trường Sa…”
Cùng với điều kiện khó khăn của cây trồng, những con vật nuôi ở quần đảo Trường Sa cũng không thoát khỏi cảnh thiếu thốn về con giống, giới hạn về kỹ thuật chăn thả, xây chuồng trại. Theo Tiến sĩ Ngô Quang Vinh, nguồn giống vật nuôi hiện có ở Trường Sa chủ yếu tự phát, có gì nuôi nấy như heo lai, heo rừng, gà, vịt…được tặng từ các đoàn công tác ở đất liền, sinh sản theo phối giống tự nhiên nên bản năng thích nghi môi trường biển đảo rất kém. Thức ăn cho vật nuôi hiện khoảng 80% tự túc tại chỗ các loại thực phẩm thừa, cá vụn… Chỉ có 20% còn lại là thức ăn công nghiệp được đưa từ đất liền ra. Đã có nhiều con heo lai, heo rừng sinh ra chưa lâu đã ngã bệnh chết vì mưa gió khó lường ở đảo.  
Đối chiếu những số liệu đề xuất của Tiến sĩ Ngô Quang Vinh và đồng nghiệp với thực tế một chuyến khảo sát nhiều ngày tại quần đảo Trường Sa của Đoàn Công tác các nhà quản lý khoa học thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn vào tháng 5/2011, đã thống nhất từng giải pháp giúp bộ đội, nhân dân Trường Sa hoàn chỉnh dần các mô hình “xanh và tươi”, từng bước cải tạo môi trường cây xanh, tự túc rau xanh, tự túc thực phẩm thịt tươi hàng ngày. Đó là xây dựng nhà kính, nhà lưới, trồng rau trên giá thể trong nhà, chế biến phân hữu cơ bằng phân gia súc và phân xanh, trồng thêm nhiều loại rau mới và nhiều loại cây lâu năm vừa cho quả ăn vừa cho bóng mát; trồng cỏ để tăng quy mô chăn nuôi đàn bò, phát triển nhanh đàn vịt, gà đẻ trừng, đàn heo sinh sản với kỹ thuật chăn nuôi “khô” mới ở đảo xa…( còn nữa)   


Người thiết kế mô hình “xanh và tươi” ở Trường Sa

Ghi chép VĂN VIỆT
( Tiếp theo và hết)
… Việc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thống nhất xây dựng mô hình “xanh và tươi ” ở quần đảo Trường Sa còn căn cứ vào nguồn Đề tài “Nghiên cứu xây dựng mô hình và kỹ thuật trồng rau năng suất cao cho quần đảo Trường Sa” được triển khai từ tháng 11/2006, hoàn thành vào tháng 8/2008, cũng do Tiến sĩ Ngô Quang Vinh là đồng Chủ nhiệm với một nhà khoa học thuộc Trung tâm Nhiệt đới Việt- Nga, Chi nhánh phía Nam thuộc Bộ Tư lệnh Hải quân. Kết quả Đề tài đã nghiên cứu và hướng dẫn bộ đội, nhân dân trồng thành công hơn 10 giống rau trong nhà lưới, nhà kính, trồng trên giá thể, đạt năng suất thu hoạch mỗi tháng từ 2-3kg/mét vuông. Ngày 03/11/2008, Đề tài được Hội đồng Khoa học Công nghệ, Quân chủng Hải quân nghiệm thu xếp loại Giỏi. Đến năm 2010, Đề tài đoạt giải Nhất Hội thi sáng tạo thành phố Hồ Chí Minh và giải Khuyến Khích Hội thi sáng tạo toàn quốc.

Tiếp tục mở rộng từ thành công của Đề tài trồng thành công hơn 10 giống rau xanh nói trên, tháng 01/2012,  Dự án “ Sản xuất thử nghiệm một số giống cây trồng vật nuôi ở quần đảo Trường Sa” được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chính thức được phê duyệt triển khai. Tiến sĩ Ngô Quang Vinh được tiếp tục giao làm Chủ nhiệm Dự án triển khai trong 3 năm - từ đầu năm 2012 đến hết năm 2014. Theo đó, Dự án chọn triển khai các mô hình “xanh và tươi” trên 3 đảo nổi là Trường Sa Lớn, Song Tử Tây và Sinh Tồn; cùng 4 đảo chìm là Đá Nam, Đá Lát, Len Đao và Đá Lớn. Có 12 giống rau được trồng thử nghiệm trong nhà kính là cải xanh, cải ngọt, tần ô, cải ngồng, rau đay, rau dền, xà lách, hành lá, hẹ, húng quế, húng nhủi, rau mùi. Riêng trồng trong vòm lưới 7 loại rau trong mùa mưa là cải xanh, cải ngọt, cải ngồng, rau đay, rau dền, xà lách, hành lá. Các giống vật nuôi được đầu tư kỹ thuật mới để sinh sản tăng sản lượng thịt, trứng gồm bò lai thịt, heo đen giống địa phương, vịt, gà, ngan. Các giống cây trồng mới để tăng độ phù xanh cho đảo và cho trái, cho măng để ăn gồm cây dừa, cây tre, cây mít, cây xoài…    
 Tính đến giữa tháng 6/2012, tức là sau hơn 6 tháng triển khai các mô hình “xanh và tươi” ở quần đảo Trường Sa, Tiến sĩ Ngô Quang Vinh, Chủ nhiệm Dự án phấn khởi nói:  “Rau xanh gieo hạt nhiều loại trong nhà kính ở đảo Trường Sa Lớn đã bắt đầu trổ mầm và lá với tỷ lệ trên 90%...”. Theo đó, một căn nhà kính có diện tích 252 mét vuông đã hoàn thành việc xây lắp và bắt đầu xuống giống các loại hạt rau từ tháng 5/2012. Chất liệu xây lắp từ các bức vách đến các tấm mái che bằng nhựa tổng hợp trong suốt, vừa ngăn được mưa, ngăn được hơi muối mặn mà vẫn bảo đảm độ đủ độ ánh sáng quang hợp cho rau. Hạt rau được gieo trồng trong khay giá thể phối trộn của Dự án với những thành phần gồm phân chuồng, than bùn, mùn xơ dừa, nấm có lợi…lấy từ  20mét  khối của đất liền đã chuyển ra đảo. Hệ thống tưới phun, tưới nhỏ giọt hiện đại nhất của Israel được lắp đặt, vận hành bên trong nhà kính. Khoảng 10 giống rau được đồng loạt trồng thử nghiệm trong nhà kính như cải xanh, cải ngọt, cải ăn bông, rau muống, xà lách, rau dền, tần ô, hành, hẹ, rau đay. Tiến sĩ Vinh kể tiếp: “ Ở đảo chìm Đá Nam, mấy ngày gần giữa tháng sáu, sóng to, gió lớn liên tục nổi lên. Nhưng qua kiểm tra bên trong một vòm lưới vừa xây lắp xong, đã che chắn được hoàn toàn những làn hơi nước mặn xâm nhập vào. Vậy là mô hình trồng rau nhà lưới đảo chìm đã có khả quan bước đầu tiên rồi…  ” Được biết nhà lưới này đã hoàn thành với phần khung rộng 0,8m, dài 1,2m, cao 0,8m. Bên trong nhà lưới, bộ đội đang đưa giá thể vào trong từng khay đất để xuống hạt giống trong giữa cuối tháng 6/2012.   
Cũng theo Tiến sĩ Vinh cho biết, trong tháng 5/2012, Tiến sĩ Vinh cùng các nhà khoa học thành viên trong Dự án đã tiến hành cấp phát tài liệu, tổ chức tập huấn và hướng dẫn thực hành về kỹ thuật chăm sóc rau xanh trong vòm kính, nhà lưới cho 70 bộ đội ở 3 đảo nổi và 4 đảo chìm ở quần đảo Trường Sa, nên khi khi trực tiếp chuyển giao sản xuất, đã không gặp phải những ngỡ ngàng, lúng túng. Đồng thời sau khi 70 lượt bộ đội tiếp tục được tập huấn về kỹ thuật chăn nuôi bò, heo, gà, vịt trên đảo, Dự án chuyển giao cho bộ đội với số lượng khá nhiều hom giống và hạt 3 loại giống cỏ sữa để chăn nuôi bò thịt, hiện đã trồng lưu giữ trên 20 mét vuông vườn ươm ở đảo Trường Sa Lớn và 100 mét vuông vườn đất ở đảo Song Tử Tây. Bước đầu chăm sóc giống cỏ này với các phương pháp tưới nước, bón phân ủ đặc biệt đã chứng tỏ khả năng chống chịu với khí hậu khắc nghiệt ở biển đảo, đã thu hái làm thức ăn khá “ngon miệng” không chỉ cho bò mà còn cho heo, gà, vịt, ngan. “ Tổng hợp từ đầu năm 2012 đến nay, Dự án đã đưa ra nuôi trên 3 đảo nổi và 4 đảo chìm với những con giống vật nuôi đã và đang tăng trọng trưởng thành, bước vào thời kỳ phối giống gồm 4 con bò giống ( 1 con đực, 3 con cái); 5 con heo đen giống địa phương ( 1 con đực, 4 con cái); 100 con vịt cả mái và giống đã bắt đầu phối giống, đẻ trứng…  ”- Tiến sĩ Vinh nêu số liệu thuộc nằm lòng.
Mô hình “xanh và tươi” trên 3 đảo nổi và 4 đảo chìm trên quần đảo Trường Sa đến cuối năm 2012, Chủ nhiệm Dự án, Tiến sĩ Ngô Quang Vinh cùng với khoảng 10 nhà khoa học trong Viện Khoa học kỹ thuật nông nghiệp miền Nam ( Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) phải tích cực hoàn thành nhiều công trình nghiên cứu về chăm sóc hiệu quả nhất trên mỗi cây trồng, trên mỗi con vật nuôi. Đó là công trình trồng rau từ việc sử dụng cát biển tại đảo để giữ độ ẩm cho giá thể; sử dụng xơ dừa và tạo phân thủy canh; phối trộn phân chuồng; trồng 500 mét vuông cỏ, xây hầm ủ cỏ cho bò ăn trong mùa khô, xây lắp mới 25 mét vuông nhà kính trồng các loại hoa như hoa sống đời, hoa cúc, hoa giấy và từ 5-6 giống hoa xương rồng; mỗi đảo trồng mới từ 10- 15 cây dừa lai, từ 10- 15 cây mít năng suất cao, trồng từ 30- 50 bụi tre gai và tre lấy măng…Đến năm 2014, Dự án kết thúc sẽ hoàn thành 3 nhà kính ( diện tích mỗi nhà kính trung bình từ 220- 250 mét vuông); 300 nhà vòm kính (mỗi nhà có kích thước dài 1,2m, cao 0,8m, rộng 0,8m). Tổng diện tích nhà kính khoảng 800 mét vuông gồm 700 mét vuông trồng rau và 100 mét vuông trồng hoa, đạt được các chỉ tiêu phấn đấu gồm sản xuất thêm từ 50- 60 tấn rau xanh, 4tấn thịt heo, 2,5 tấn thịt bò và 50 ngàn quả trứng vịt…
Sau từ 1-2 chuyến ra quần đảo Trường Sa mỗi năm, Tiến sĩ Ngô Quang Vinh về đất liền lại kết nối liên lạc điện thoại hàng ngày với từng “kỹ thuật viên nông nghiệp” là bộ đội trên 7 đảo của Dự án đã đào tạo, nghe đánh giá tiến độ phát triển của vật nuôi, cây trồng để chỉ đạo kịp thời các giải pháp kỹ thuật hiệu quả hơn, phấn đấu khi bước vào năm 2014, riêng mỗi mét vuông nhà kính ở đảo mỗi ngày phải thu hoạch ít nhất từ 2kg- 3 kg rau xanh đạt chất lượng cao. Còn thịt, trứng tươi thì bữa ăn nào của bộ đội, nhân dân trên đảo cũng đều sẽ có.
Trước thực tế mô hinh “xanh và tươi” trên quần đảo Trường Sa đang tiến triển khả thi, dự báo nhiều tín hiệu khả quan, người thiết kế chính và là Chủ nhiệm Dự án, Tiến sĩ Ngô Quang Vinh tiếp tục mong muốn được góp sức hơn nữa: “Nếu được phép áp dụng mô hình “xanh và tươi” này trên tất cả 21 đảo của quần đảo Trường Sa, Dự án sẽ cần thêm 20 nhà kính, khoảng 15- 16 ngàn khay chậu đất trồng rau, hoa, hàng năm cần 100 mét khối giá thể mới. Bên cạnh đó cần thêm 200 con heo giống, 30- 40 con bò giống, 300- 400 con vịt giống…”   Nếu đề xuất mới này của Tiến sĩ Ngô Quang Vinh tiếp tục được Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn chấp thuận, tôi hình dung chỉ vài năm nữa thôi, chất lượng cuộc sống hàng ngày từ mô hình “xanh và tươi ” của bộ đội và nhân dân trên quần đảo Trường Sa đâu còn gọi là còn cách biệt nữa so với cuộc sống ở đất liền./.
Đà Lạt tháng 6.2012