VĂN VIỆT
Gần 4 năm, bà T phải ra vào không biết bao
lần ở cơ quan thi hành án Đà Lạt để yêu cầu áp dụng các biện pháp cần thiết để
buộc ông B ( chồng) và bà L (vợ ) phải trả nợ gần 140triệu đồng nhưng vẫn không có
kết quả. Mặc dù đây là án có điều kiện
thi hành, nhưng Chi cục Thi hành án Đà Lạt lại trả lời “do chấp hành viên chưa
tác nghiệp tiếp”; còn Cục Thi hành án Lâm Đồng trả lời “thiếu kiên quyết chứ không phải trì hoãn
thi hành án” (?!)
THI HÀNH ÁN ĐÀ LẠT… “CHƯA
TÁC NGHIỆP TIẾP”
Theo
bản án phúc thẩm ngày 20/11/2008 của TAND tỉnh Lâm Đồng và Quyết định thi hành
án ngày 22/12/2008 của Chi cục Thi hành án thành phố Đà Lạt, bà T. được thi
hành án gần 140 triệu đồng, buộc bà L phải trả hơn 107 triệu
đồng và cùng với người chồng là ông B phải trả hơn 32 triệu đồng.
Sau
khi hết thời gian tự nguyện thi hành án của ông B, bà L, THA Đà Lạt đã xác
minh các tài sản để cưỡng chế do bà T cung cấp gồm 01 chiếc xe máy, 01 căn
nhà sở hữu chung tại đường Nguyễn Văn Cừ, Đà Lạt cùng thu nhập lương
hàng tháng tại Công ty Công trình đô thị Đà Lạt. Tuy nhiên, trong gần 4 năm
qua, THA Đà Lạt chỉ tiến hành các công việc lấy lệ như: Mời ông B, bà L đến làm việc; gửi công văn đến Công ty Công trình đô thị Đà Lạt đề nghị cung
cấp thu nhập từ lương và các khoản phụ cấp khác của ông B…
THA Đà
Lạt đã biện minh cho lý do chưa tổ chức cưỡng chế các tài sản vừa nêu để thi
hành án trả nợ nhanh chóng cho bà T: Chiếc xe máy đã không thể hiện trong
biên bản cung cấp thông tin của bà T; căn nhà trên đường Nguyễn Văn Cừ,
Đà Lạt là sở hữu chung của ông B ( con) với người cha là ông L là “ tài sản lớn hơn nhiều so với nghĩa vụ phải thi hành án của ông B chỉ có
32.108.000 đồng, nên chấp hành viên chưa giải quyết…” Và với việc không khấu
trừ thi hành án từ khoản tiền lương và các khoản thu nhập khác của ông B, THA
Đà Lạt thanh minh một cách quá đơn giản và hết sức vô trách nhiệm: “ …Chấp hành
viên có gửi công văn đề nghị Công ty Công trình đô thị Đà Lạt cung cấp số tiền
lương và các khoản phụ cấp khác mà ông B được hưởng để khấu trừ thi hành án,
nhưng chưa được trả lời. Từ đó đến nay, chấp hành viên cũng chưa có tác nghiệp
tiếp để xác minh điều kiện thi hành án của ông B… ” (?!) Đây là những cách
hành xử của THA Đà Lạt đã cố tình vi phạm điều 45, 46, Luật Thi hành án dân sự
hiện hành quy định sau 15 ngày không tự nguyện thi hành án có điều kiện, cơ
quan thi hành án phải tổ chức cưỡng chế…
Theo
trình bày của bà T khi bà cung cấp 01 chiếc xe máy của bà L đang sử dụng thì
chấp hành viên THA Đà Lạt, bà Võ Thị Hồng Nhung đã ghi trên bìa hồ sơ thi hành
án và hứa miệng sẽ tiến hành xác minh, nhưng hoàn toàn không thực hiện. Trong
khi bà L sử dụng chiếc xe máy hàng ngày từ nhà ra phố, rất nhiều quen mặt đã
thấy, đã biết, nhưng THA Đà Lạt đã không chủ động lập thành văn bản, không kiểm
tra thực tế như vậy, đã gián tiếp “bật đèn xanh” cho bà L tẩu tán rồi lấy đó tạo
thành chứng cứ không có điều kiện thi hành án “… đối chiếu hồ sơ, không có biên
bản nào thể hiện bà T cung cấp chiếc xe máy của bà L cho THA Đà Lạt…” (?!)
THI HÀNH ÁN LÂM ĐỒNG “CHƠI CHỮ” VÀ SAI LỖI CHÍNH TẢ
Ngày
23/7/2012, ông Nguyễn Hữu Tài, Phó Cục trưởng Cục Thi hành án Lâm Đồng ký văn
bản số 16, trả lời khiếu nại của bà T. đã sai quá nhiều lỗi chính tả ngay từ những dòng đầu. Đó là “thi hành án” ghi
thành “thi gành án”; “thành phố” ghi thành “thành phốp”; “phải trả” ghi thành
“phảu trả”; “Chi cục” ghi lặp lại 2 lần thành “Chi chục”. Đề cập đến gần 4 năm
không tổ chức thi hành án có điều kiện cho bà T, Cục này đã “chơi chữ” rằng do
THA Đà Lạt “thiếu kiên quyết” chứ không phải “trì hoãn”.
Theo
từ điển của Nhà Xuất bản Văn hóa thông tin tại Hà Nội, xuất bản vào tháng
01/2007, “kiên quyết” là “không thay đổi
ý kiến”; và “trì hoãn” là “để chậm lại,
làm kéo dài thời gian”. Suy ra “thiếu kiên quyết thi hành án” là “thay đổi ý
kiến ” thi hành án, gây ra việc thi hành án “chậm lại, làm kéo dài thời gian”. Như
vậy việc chấp hành viên THA Đà Lạt, bà Võ Thị Hồng Nhung đã “thiếu kiên quyết”
thi hành án là nguyên nhân gây ra hệ quả “ làm kéo dài thời gian” ( trì hoãn),
nhưng Cục THA Lâm Đồng lại cố gồng lên “chơi chữ” thiếu chuẩn xác, cộng với
những lỗi chính tả như trên, liệu có là thể hiện sự biện bạch, bao che khỏa lấp
của THA cấp trên đối với thái độ tắc trách của THA cấp dưới nói chung và của
chấp hành viên Võ Thị Hồng Nhung nói riêng, vi phạm Điều 136, Hiến pháp : “Các
bản án và quyết định của Tòa án nhân dân đã có hiệu lực pháp luật phải được các
cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ
chức xã hội, các đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân tôn trọng; những
người và đơn vị hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành” .
Tháng 8/2012.
PHẢN HỒI
Cuối tháng 12/2012, Chấp hành viên Võ Thị Hồng Nhung đã có văn bản khấu trừ 30% thu nhập của ông B để thi hành bản án nói trên. Dẫu quá chậm nhưng động thái này đã thể hiện sự "thành thật" khắc phục một phần hậu quả trì hoãn thi hành án do bà Nhung đã để xảy ra...
Đà Lạt Tháng 01/2013