Bài 2, Nhận diện dân di cư tự do
VĂN VIỆT
Còn
22.000 hộ dân di cư tự do chưa bố trí sản xuất ổn định
Đánh giá chung cho thấy, địa
hình 5 tỉnh Đắk Lắk, Gia Lai, Kon Tum, Đắk Nông và Lâm Đồng thuộc khu vực Tây
Nguyên chia thành 3 tiểu vùng khí hậu Bắc Tây Nguyên, Trung Tây Nguyên và Nam
Tây Nguyên với độ cao từ 500m đến 1.500m với đặc điểm, điều kiện thuận lợi để ổn
định và phát triển các loại cây công nghiệp, cây ăn quả dài ngày cùng các loại
cây ngắn ngày đạt hiệu quả kinh tế cao... Trong tổng dân số điều tra vào cuối
năm 2019 hơn 5,8 triệu người, chiếm 70% dân số vùng nông thôn và 30% dân số vùng
thành thị. Mật độ dân số trung bình chỉ 103 người/km2. Trong giai đoạn
1996- 2020, dân số vùng Tây Nguyên tăng nhanh, trong đó chiếm tỷ lệ không nhỏ
dân số tăng cơ học thông qua quá trình nhập cư với quy mô 170- 180.000 người/năm.
Thống kê từ năm 2005 đến
năm 2017, dân di cư tự do chủ yếu từ các tỉnh phía Bắc đến Tây Nguyên khoảng
58.846 hộ, nhưng do nhiều điều kiện khác nhau, đến nay các cơ quan chuyên trách
khu vực này mới tổ chức bố trí ổn định vào các điểm dân cư 36.846 hộ, nên vẫn
còn khoảng 22.000 hộ sinh sống rải rác trên các diện đất rừng và đất lâm nghiệp
trên địa bàn. Và tính riêng giai đoạn năm 2015- 2020, trong số 40.616 hộ dân di
cư tự do đến khu vực Tây Nguyên thì chiếm tỷ lệ 55% được bố trí vào các điểm
dân cư, còn lại 45% tiếp tục định cư, định canh phân tán trong các khu rừng đặc
dụng, rừng phòng hộ, rừng sản xuất. Trong đó chiếm tỷ lệ hộ dân di cư tự do nhiều
nhất là người Kinh (chiếm 48,5%); tỷ lệ 21,5% còn lại là các hộ đồng bào dân tộc
thiểu số H’Mông, Tày, Thái, Mường, Nùng, Dao…Đa số người Kinh di cư tự do đến
các tỉnh Lâm Đồng, Gia Lai, Kon Tum; người H’Mông và các dân tộc thiểu số khác
tập trung di cư tự do đến Đắk Lắk, Đắk Nông. Hộ dân di cư tự do đến Tây Nguyên
thường định canh theo từng nhóm hộ cùng dân tộc chọn các khu vực đất lâm nghiệp
dọc theo thung lũng, khe suối…để canh tác nông nghiệp. Từ năm 2005 đến năm
2017, chính quyền các cấp ở Tây Nguyên đã tiến hành bố trí, sắp xếp, ổn định
cho 36.477 hộ/58.846 hộ dân di cư tự do chiếm tỷ lệ 62%. Tại các điểm dân cư mới
này, các hộ dân di cư tự do theo quy hoạch đã được thụ hưởng các chính sách hỗ
trợ của Nhà nước như: nhà ở xây dựng kiên cố, điện lưới quốc gia, nước sinh hoạt
đảm bảo vệ sinh, cơ sở hạ tầng giao thông xây dựng tương đối đồng bộ, đáp ứng
nhu cầu đi lại, sản xuất, sinh hoạt, tạo sinh kế ổn định đời sống….
Lập
751 Đề án chuyển mục đích sử dụng diện tích rừng và đất lâm nghiệp
Tuy nhiên theo Tổng cục Lâm
nghiệp (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn): “Tình trạng di cư tự do ở Tây
Nguyên đã ảnh hưởng trực tiếp đến tình hình quy hoạch, phân bổ lại dân cư trên
địa bàn. Đặc biệt các hộ dân di cư tự do đến Tây Nguyên chủ yếu là hộ nghèo, hiện
sống rải rác ở những vùng sâu, vùng xa, vùng lõi của rừng đặc dụng, rừng phòng
hộ, rừng sản xuất, gây khó khăn đối với công tác quản lý, bảo vệ rừng trong khu
vực….. ” Theo đó, mặc dù một bộ phân hộ
dân di cư tự do đã được chính quyền các cấp ở Tây Nguyên bố trí có chỗ ổ ổn định,
nhưng do thiếu giấy tờ tùy thân, thiếu đất sản xuất, thu nhập thấp…, dẫn đến
tình trạng tái diễn lấn chiếm đất lâm nghiệp trái phép để sản xuất cây công
nghiệp, cây ăn trái và các loại ngắn ngày khác. Trong khi đó một số địa phương
trong khu vực Tây Nguyên triển khai bố trí chỗ ở cho dân di cư tự do vẫn còn chưa
sát với thực tế, nhiều dự án đang thực hiện dở dang, phải điều chỉnh nhiều lần,
nhưng kết quả lại chỉ mới đáp ứng khoảng 30% so với nhu cầu vốn địa phương. Ngoài
ra việc lồng ghép các chính sách hỗ trợ của Nhà nước kết hợp chính sách thu hút
doanh nghiệp đầu tư phát triển sản xuất ở khu vực tập trung dân di cư tự do với
kết quả còn gặp nhiều hạn chế…
Nhận định trong những năm
tới, trước diễn biến khó lường của biến đổi khí hậu, một số tỉnh miền núi phía
Bắc và miền Trung nguy cơ phải gánh chịu thiên tai, bão lũ thường xuyên, dẫn đến
đời sống khó khăn, sản xuất kém hiệu quả của nhiều hộ dân, đặc biệt là hộ dân
người đồng bào thiểu số, dự báo khả năng di cư tự do đến Tây Nguyên lấn chiếm đất
rừng sản xuất nông nghiệp vẫn còn tiềm ẩn. Bởi vậy để hoàn thành kế hoạch vào
năm 2025 bố trí ổn định đời sống và sản xuất đối với khoảng 22.000 hộ dân di cư
tự do đến từ nhiều năm trước đây, đồng thời khắc phục cơ bản tình trạng dân di
cư tự do mới phát sinh, đòi hỏi các cấp, các ngành và cả hệ thống chính trị từ
Trung ương đến địa phương nói chung, 5 tỉnh Lâm Đồng, Đắc Nông, Đắk Lắk, Gia
Lai, Kon Tum của khu vực Tây Nguyên nói riêng cần đồng bộ vào cuộc triển khai cơ
chế, chính sách và những nhóm giải pháp mạnh mẽ và thiết thực hơn nữa.
Được biết đến đầu năm
2020, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã báo cáo xin ý kiến Thủ tướng
Chính phủ chuyển đổi mục đích sử dụng rừng sang mục đích sử dụng khác đối với 338ha
diện tích rừng và đất lâm nghiệp ở vùng Tây Nguyên, trong đó có nhiều diện tích
sản xuất nông lâm kết hợp của hộ dân di cư tự do. Tính chung cả vùng Tây Nguyên
đã lập 751 Đề án chuyển mục đích sử dụng rừng và đất lâm nghiệp khoảng
48.980ha. Bởi vậy để nâng cao giá tri đất sản xuất nông lâm kết hợp của dân di
cư tự do, 5 tỉnh Tây Nguyên sớm xây dựng và triển khai quy hoạch từng loại cây
trồng phù hợp với từng địa hình sinh thái. Bên cạnh đó cần áp dụng các cơ chế hỗ
trợ về vốn tín dụng, vốn đầu tư khuyến nông, khuyến lâm, chuyển giao khoa học kỹ
thuật công nghệ, áp dụng các biện pháp thâm canh, tăng vụ, nâng cao năng suất
và chất lựợng nông sản thu hoạch. Ngoài ra phải đẩy mạnh thu hút doanh nghiệp,
hợp tác xã, tổ hợp tác đầu tư liên kết sản xuất gắn với chế biến, tiêu thụ sản
phẩm và đầu tư phát triển hạ tầng vùng bố trí dân cư mới, phấn đấu đến năm
2030, toàn vùng Tây Nguyên đảm bảo thực sự ổn định cuộc sống, phát triển sản xuất
bền vững đối với dân di cư tự do…/.
*Tháng 8/2020