Thứ Hai, 25 tháng 2, 2013

Chủ nhiệm đi bán rau

Ghi chép VĂN VIỆT
Khi lập đông, thời tiết hanh khô là Đà Lạt bắt đầu giai đoạn thu hoạch rau xanh với số lượng hàng ngày tăng đều, tăng liên tục cho đến đầu mùa hạ năm sau. Trên đồng rau mang thương hiệu “Xuân Hương Đà Lạt”, ông Chủ nhiệm đã qua nhiều năm tuổi lục tuần, vẫn nhanh nhẹn mỗi tuần tổ chức thu hoạch, sơ chế cả chục tấn rau an toàn của mình và của xã viên để chất lên xe lạnh chạy ra Bắc, vào Nam, xuống duyên hải miền Trung rồi ngang qua các tỉnh Bắc Tây Nguyên để bán cho hệ thống siêu thị và các chợ đầu mối ngoài trời. Đã mười năm đi bán rau mà điểm lại thấy như mới ngày nào đây thôi, ông Chủ nhiệm một mình đến các siêu thị ở Sài Gòn tìm những người không quen, không biết…

Ông Chủ nhiệm đó là Trần Đức Quang, Chủ nhiệm HTX Xuân Hương, Đà Lạt, một đơn vị kinh tế tập thể của nông dân được vinh dự đón Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đến thăm vào cuối năm 2012. Dành gần cả giờ đồng hồ xuống trực tiếp vườn rau của ông Chủ nhiệm và của những xã viên tiêu biểu, Tổng Bí thư đã rất phấn khởi trước hình thức hợp tác giúp nhau làm ăn, giúp nhau sản xuất trồng rau nhà kính công nghệ cao, quanh năm tiêu thụ ổn định sản phẩm trên 5 ha, đem lại đời sống khấm khá của hơn 20 hộ gia đình. “Tôi giới thiệu hơn 10 giống rau công nghệ cao đang khẳng định lợi thế cạnh tranh của HTX Xuân Hương, Tổng Bí thư mừng lắm rồi dặn dò chúng tôi hãy tiếp tục giữ vững và nâng cao chất lượng sản phẩm, mở rộng diện tích thêm nhiều hơn nữa… ” –Ông Chủ nhiệm kể.
Nhớ hồi cuối những năm chín mươi của thế kỷ trước, ông Quang tham gia công tác ở Hội Nông dân phường 9, Đà Lạt đã chủ động đưa ra ý tưởng để cấp ủy, chính quyền địa phương xây dựng thành mô hình tổ hợp tác làm điểm phát triển sản xuất rau. Bấy giờ rau xanh Đà Lạt phần lớn những giống trồng đã có từ nửa thế kỷ trước, rau trồng ngoài trời trong một thời gian dài mới thu hoạch, hiệu quả thu lại rất thấp, đời sống nông dân khó tạo ra được những bước thay đổi lớn, nên cần phải cấp thiết chọn giống và áp dụng công nghệ canh tác mới để tạo ra những sản phẩm mới cho thị trường, từ đó nâng cao nhu cầu của người tiêu dùng. Trao đổi ý tưởng này với người bạn học thời tú tài cũ, đang là tiến sĩ nông nghiệp làm đại diện cho một doanh nghiệp thu mua rau xanh ở Sài Gòn có chi nhánh tại Đà Lạt, rất may gặp đúng địa chỉ mà ông Quang cần tìm để hợp tác. Bên bạn hứa giúp nguồn giống, giúp thiết kế xây dựng nhà lưới, hướng dẫn kỹ thuật canh tác và tiêu thụ toàn bộ sản phẩm. Bên ông Quang có sẵn 4.500 mét vuông đất, mạnh dạn bán khá nhiều lượng vàng huy động được từ trong và ngoài gia đình làm nguồn vốn đầu tư và huy động công lao động tại chỗ.
Bạn chỉ sao, ông Quang làm đúng như vậy từ công đoạn phủ giăng nhà lưới chắn mưa che nắng đến các công đoạn xới đất, xuống giống và tỉa lá, bón phân…trong suốt 45 ngày mới chính thức thu hoạch. Ông Quang trở lại cảm giác sung sướng lúc đó: “ Nhìn từng trái ớt căng da, xanh thẩm; từng búp lơ non mơn mởn, từng cọng lá xà lách chứa đầy nước tươi rói…vừa đưa lên khỏi mặt đất, có ông bạn đứng bên đầu bờ chờ mua, mình mới thấy hướng mở công nghệ mới đầy khả thi của nghề trồng rau Đà Lạt…  ” Bán hết rau của mình rồi nông dân Quang “được nước” đặt vấn đề với ông bạn tiến sĩ để hợp tác sản xuất, bao tiêu sản phẩm với 6 hộ gia đình người láng giềng trên diện tích 02 ha. Một tháng rưỡi sau thời gian sản xuất rau trong nhà lưới như kiểu ông Quang, nhiều tấn rau xanh các loại vừa thu hoạch khỏi đầu bờ là có xe của người “tiến sĩ bạn” đón đợi, chở về Sài Gòn tiêu thụ trong ngày; ngày hôm sau giao tiền đủ cho người sản xuất, nhẩm tính đưa ra ngay đáp số “lời cao hơn khá lớn so với trồng rau ngoài trời…”
Mô hình hợp tác sản xuất rau theo hướng công nghệ cao của nông dân Trần Đức Quang đã mang lại hiệu quả từ thực tiễn, cấp ủy đảng phường 9, Đà Lạt đưa vào Nghị quyết nâng lên quy mô từ tổ hợp tác thành hợp tác xã trong năm 2003. Câu chuyện của ông Quang lại liền mạch: “ Lúc đó, tôi vận động bà con láng giềng vào sản xuất hợp tác xã, tôi chắc chắn sẽ đi bán hết rau cho xã viên. Nhưng mọi người đều lắc đầu ngài ngại rằng, vào xã viên đâu còn giữ đất để sản xuất, đâu còn được quyết định giá bán rau của mình, đâu còn được chọn giống cây để trồng…Xã viên chỉ biết làm theo kế hoạch tập trung của hợp tác xã rồi tính điểm theo ngày công để chia hoa lợi…” Ông Quang cử để bà con giải bày hết những băn khoăn rồi chậm rãi giải thích: “Bà con đang nói về mô hình hợp tác xã thời bao cấp. Chứ luật mới bây giờ, xã viên hoàn toàn chủ động từ sản xuất đến tiêu thụ, hợp tác xã đứng ra đại diện tư cách pháp nhân cho xã viên để ký kết các hợp đồng liên kết liên minh với các đối tác làm ăn…”   
Tháng 4/2003, đại hội xã viên Hợp tác xã Xuân Hương, Đà Lạt chính thức triển khai, kết quả 21/21 đại diện hộ xã viên đã bầu ông Trần Đức Quang làm Chủ nhiệm, “đứng mũi chịu sào” tổ chức chuyển giao kỹ thuật sản xuất, tìm kiếm nơi bán rau nhà lưới trên diện tích 05 ha. Trong khi ông bạn tiến sĩ nông nghiệp chỉ mới đủ khả năng bao tiêu trên 02ha, còn lại 03 ha, xã viên đặt hết niềm tin vào sự xoay xở của ông Chủ nhiệm. Quả đúng như vậy. Vụ thu hoạch lứa rau nhà lưới đầu tiên, ông Chủ nhiệm Quang đã bán hết những ký rau cuối cùng của xã viên đưa về một siêu thị lớn ở Sài Gòn. Thì ra xã viên mới biết ông Chủ nhiệm đã lặng lẽ một mình xuống Sài Gòn làm quen chào hàng với từng cán bộ phụ trách kinh doanh ở từng siêu thị. Hành trang đi bán rau gồm: giấy phép kinh doanh của hợp tác xã, những tấm ảnh chụp hơn 10 sản phẩm rau của xã viên, các hợp đồng tiêu thụ rau với ông bạn tiến sĩ nông nghiệp, cuối cùng là tư chất mộc mạc, chân tình của người nông dân “gốc sú” Đà Lạt vốn có của ông Chủ nhiệm…đã thuyết phục đối tác ở Sài Gòn bỏ thời gian hơn 10 ngày lên đồng rau của hợp tác xã tham quan, tìm hiểu và ký kết tiêu thụ lâu dài.
Siêu thị này bán được rau của Hợp tác xã Xuân Hương, Đà Lạt đã nhanh chóng loan tin đến siêu thị khác ở Sài Gòn theo đó đặt hàng tăng lên mỗi ngày từ 2 – 3 tạ rau các loại. Những năm kế tiếp, cũng với vốn hành trang có được như trên, ông Chủ nhiệm Quang lại lặn lội sang các tỉnh Bắc Tây Nguyên, ký kết và triển khai được hợp đồng bán rau liên tục hàng tháng trên dưới 10 tấn rau; rồi xuống các tỉnh duyên hải Trung Trung Bộ và Trung Nam Bộ ký kết và duy trì khối lượng hợp đồng bán mỗi tháng từ 5- 10 tấn rau. Uy tín của ông Chủ nhiệm là nói sao thì làm vậy, rau chất lượng bao nhiêu tương ứng với giá bán bấy nhiêu, bên mua nhận hàng xong phải giao đủ tiền cho bên bán để đưa về tận tay từng xã viên. Nhưng ông Chủ nhiệm cũng đã dứt khoát “nghỉ chơi” với một đối tác ở Vũng Tàu khi “sự bất quả tam”  nhận đủ hàng rau mà không thanh toán tiền đúng hạn, sòng phẳng.
Nếu cuối năm 2003 trên 5 ha, xã viên Hợp tác xã Xuân Hương, Đà Lạt đã phủ kín nhà lưới thì lần lượt từ năm 2005 đến năm 2008 toàn bộ nhà lưới đã được thay thế bằng nhà kính mới, mỗi ha đầu tư cả tỷ đồng ( theo thời giá cuối năm 2012), chất lượng rau tiếp tục nâng lên mức an toàn cao. Chuyến đi bán rau cuối cùng trong năm 2012 của ông Chủ nhiệm là đi Hà Nội 4 ngày từ sự giới thiệu của một đồng hương Đà Lạt ở Sài Gòn. Vẫn phong cách của ông Chủ nhiệm “nguyên bản” nhà nông đã đưa đến một hợp đồng tiêu thụ ổn định ra hệ thống các siêu thị đất Bắc, mỗi tuần 2 chuyến, mỗi chuyến chở bằng xe lạnh từ 2- 3 tấn rau Xuân Hương..
Năm mới 2013 là bước sang năm thứ 10, xã viên Hợp tác xã Xuân Hương, Đà Lạt vẫn tín nhiệm “buộc” ông Trần Đức Quang giữ chức Chủ nhiệm đi bán rau cho xã viên với mức lương mỗi tháng trên dưới 4 triệu đồng. Nhưng trò chuyện với tôi, ông Chủ nhiệm Quang vẫn luôn hào sảng: “ Hợp tác xã giàu hay nghèo không quan trọng. Quan trọng là xã viên hợp tác xã phải giàu lên mỗi năm. Trong năm 2012, lợi nhuận của xã viên thu được trên 01 ha rau là 550 triệu đồng. Con số này hợp tác xã chúng tôi sẽ phấn đấu tăng cao hơn nữa trong năm 2013 bằng biện pháp sản xuất công nghệ mới hơn, mở rộng thị trường bán rau nhiều hơn… ”
Đà Lạt đầu năm 2013