Thứ Tư, 7 tháng 8, 2013

“Người hùng” ở thôn 5

VŨ VĂN 
Sinh ra lớn lên, theo cách mạng trưởng thành ở miền xuôi, ông tiên phong lên miền ngược giúp đồng bào dân tộc thiểu số định canh định cư, đưa hết tâm sức của mình gắn bó trọn đời với làng buôn. Tên khai sinh là Nguyễn Văn Quy mà từ khá lâu ở nơi quê hương thứ hai này, bà con trìu mến quen gọi ông là K’Wi. 

Ông Nguyễn Văn Quy, sinh năm 1951 tại một làng quê nghèo thuộc xã Mỹ Thọ, huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định. 11 tuổi thoát ly theo cách mạng cũng là thời điểm giặc dốc quân mở nhiều đợt càn quét xóm làng quê ông. Nhà cháy, mẹ gánh gồng di tản loạn lạc, những người em-đứa bị giết, đứa bị đánh đập dã man. Cảnh điêu tàn trùm lên đầu thôn, cuối xóm. 15 tuổi, ba hy sinh sau một trận đột kích do bị tên chiêu hồi chỉ điểm. Lòng căm thù giặc cứ sôi lên, cao ngất tận trời xanh. Ý thức giết giặc, trừ gian, giải phóng đồng bào từ đó nung nấu nhiệt huyết của chàng thanh niên nơi đồng đất cơ hàn, tăm tối này. 
Quá trình thử thách ở căn cứ, được phân công nhiệm vụ thông tin tuyên truyền, xây dựng cơ sở, Nguyễn Văn Quy đã thực hành xuất sắc trong mọi hoàn cảnh gian nguy nhất, kịp thời nắm bắt thông tin, vận động, thu phục không kể hết bao nhiêu lượt binh sĩ từ “bên kia chiến tuyến” tìm về với cách mạng. Và cứ thế hơn sáu năm (1969-1975) lăn xả trên nhiều “vùng nóng”  trong lòng địch ở Bình Định, Nguyễn Văn Quy đã tôi luyện nên một khí chất rằng đã đi là quyết đến và phải chiến thắng! 
Năm 1982, Nguyễn Văn Quy dẫn đầu 50 hộ dân từ huyện Phù Mỹ, Bình Định lên xây dựng vùng kinh tế mới Lâm Đồng, chọn vùng đất Cát Tiên để dựng làng, lập ấp định cư. Trước đó các năm ‘bảy chín, tám mươi’ đã thực hiện các bước chuẩn bị khá kỹ lưỡng nên không một hộ nào gặp bị động về chỗ ở, đất canh tác. Xong xuôi, ông Quy được phân công làm cán bộ tiếp dân của 3 xã Bờ Rum ( Gia Viễn, Nam Ninh, Tiên Hoàng ngày nay). “Số phận đã níu chân tôi với làng buôn vùng đất Cát Tiên này ngay từ buổi đầu gặp gỡ …” Ông Quy tâm sự.
Nhớ năm xưa nghèo khó…
Năm 1990, Nguyễn Văn Quy bắt đầu hành trình “thám hiểm” khu rừng núi 5 buôn của Cát Tiên gồm: Bù Gia Rá, Châu Mạ, Bi Nai, Bù Sa và Bờ Đơ. Phương tiện đi duy nhất là…đi bộ. Buôn trung tâm cách huyện lỵ Cát Tiên 35km; còn buôn cách buôn từ 7 km đến 15km. Tất cả tính bằng đường rừng, cheo leo và đầy hiểm trở. Ông Quy nhớ lại: “Đồng bào Châu Mạ mình bấy giờ trông quá nghèo khó, lạc hậu. Nghĩ phải ăn cùng, ở cùng, làm cùng với bà con để vận động từng buôn sớm định canh định cư. Đề xuất của tôi sau đó được tổ chức chấp thuận. Tôi mừng không xiết kể…”
Ông Quy quyết lòng vào giữa rừng dựng một lán trại bằng tre nứa, đào một cái giếng nước to. Lãnh đạo tỉnh Lâm Đồng đến thăm căn vặn “Có chắc làm được không mà ở một mình giữa rừng vậy ?” Ông Quy từ tốn “Dạ, cho cháu chừng này sang năm sẽ trả lời chính thức !”
Nói để tự nêu thêm quyết tâm của mình, để cấp trên bớt lo, chứ mới ngày đầu vào đây, ông Quy phải đối diện với nhiều thử thách khiếp hãi nhất. Ông K’Mơn, 50 tuổi- thấy kẻ lạ hoắc nào đó dám vào buôn làng ở-đã cầm xà gạt xấn tới hỏi gằn: “Mày ở đây không bị cọp ăn thịt cũng bị xà gạt chém chết (?!)” Ông Quy bước ra …một bài quyền múa bằng cây xà ben ( bài quyền múa roi của võ Bình Định), nói: “Tôi đến đây là giúp bà con được định canh, định cư, có xe cộ, nhà cửa, lúa, khoai đầy nhà…Kẻ nào giám chém tôi ?! ” Hảo hán gặp anh hùng, K’Mơn nể trọng quay gót ra về. Hôm sau dẫn mấy chục thanh niên các buôn lân cận đến…bái phục võ nghệ anh Hai Quy và xin  được thụ giáo. Gắn với dạy võ, anh Hai Quy đã vận động số “võ sinh” này thu gom, nộp cho chính quyền 35 cây súng AK, CKC, Cạc-Bin…còn nằm rải rác trong các tay săn thú rừng ở buôn làng. Rồi Đội du kích được thành lập. Anh Hai Quy chỉ huy đi khai hoang 30 ha, đưa giống điều về trồng dần dần có kết quả .
Cho đồng bào nhận biết từ hình ảnh trực quan là cách vận động, tuyên truyền thường dùng của anh Hai Quy nhưng mang lại hiệu quả rất nhanh. Hôm đưa thủy điện nhỏ về buôn, đồng bào cứ đâm lo, không khéo sẽ bị “bà rừng” đổ nước lũ lụt, đánh lửa sấm sét xuống làng thì nguy. Anh Hai Quy gọi dân làng tập trung đông đủ trước lán trại mình, rồi biểu diễn…điện lửa. Cầm hai dây âm-dương tóe lửa từng chớp, từng chớp, Hai Quy lý giải: “Lửa như thế này, bà rừng mà đến đây thì điện giật chết ngay. Chỗ này là chỗ của bà con mình làm ăn…” Đoạn cho nước chảy phát điện bật sáng lên, bà con mới tròn xoe mắt : “cán bộ giỏi thật, nói rất đúng!”
“Lần khác việc hóa giải ó ma lai cũng thiệt căng !” Hai Quy kể tiếp: Khi có tin từ buôn khác vừa bị chém chết 2 mạng người vì nghi ó ma lai. Người nào bị nghi phải đặt hai bàn tay để đổ chì đang nấu chảy lên trên. Chì chảy xuyên qua hai bàn tay thì người đó là ó ma lai, phải lôi ra dùng xà gạt chém ngay. Hai Quy gọi ngay cả hai “bên nguyên” ( người tố cáo) và “bên bị” ( người bị tố cáo) lên hỏi mọi sự rồi “tuyên”: “Bên nguyên”  đi đổ chì để chứng tỏ mình không phải ó ma lai trước đã, sau đó mới tới “bên bị”. Nghe hoảng quá, “bên nguyên” xin Hai Quy “tha cho em”, hứa không giám nghi oan ó ma lai cho người khác nưã. Sau đó lấy trường hợp này làm gương cho cả buôn làng. Từ đó đến nay sự cuồng tín ó ma lai đã dẹp bỏ hoàn toàn trong suy nghĩ cộng đồng. Ai cũng nghe theo lời phân tích vừa hay, vừa đúng của Hai Quy…
Nay quyết chí làm giàu
Địa bàn 5 buôn mà Nguyễn Văn Quy đi “thám hiểm” nói trên, năm 1991 gọi là thôn 5, thị trấn Đồng Nai huyện Cát Tiên. Ông Quy được cử làm thôn trưởng kiêm Bí thư Chi bộ với 10 đảng viên tại chỗ là những người trưởng thành trong chiến tranh, tuổi đời từ…50 tuổi trở lên. Ngày 26/3/2003 thôn 5 nâng lên thành quy mô hành chính mới: xã Đồng Nai Thượng. Tính ra đã mười ba năm máu thịt với làng buôn, anh Hai Quy rồi K’Wi giữ các trọng trách Bí thư Chi uỷ với 8 chi bộ gồm 37 đảng viên, Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân xã này. Nay, K’Wi đã tạo được một nguồn lực kế thừa như Điểu K’Jắc, Điểu K’Lợi, Điểu K’Rá….để chuyển giao lại các chức vụ lãnh đạo hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân xã. 
Với người dân từ phát nương làm rẫy, chọc lỗ tỉa hạt, sau mười mấy năm nhờ Hai Quy hướng dẫn họ bước lên khả năng canh tác chiều sâu, ổn định các vùng cây công nghiệp điều, cà phê, tiêu; cây ăn quả rộng lớn. Điện, đường, trường, trạm hiện diện trên khắp buôn làng. Tổng số có 225 hộ dân thì chiếm 2/3 đã có tivi, xe gắn máy, đầu máy vidéo cùng các phương tiện sinh hoạt khác. K’Wi đếm từng hộ có nhà xây xi-măng, nhà gỗ lát gạch hoa…cả thảy gần 70 căn. An ninh trật tự được giữ vững. Mê tín dị đoan, hủ tục mông muội đã vĩnh viễn đầy lùi. Diện mạo thôn 5 ngày xưa, Đồng Nai Thượng hôm nay đang sáng đẹp từng ngày, bước vào ngày mai đầy triển vọng làm giàu nhanh hơn.
Từ Nguyễn Văn Quy đến Hai Quy và bây giờ là K’Wi, người của buôn làng rồi, phải ở mãi làm ăn sinh sống đến trọn đời thôi vậy. “Đồng Nai Thượng là nơi rừng thiêng từng che chở, nuôi nấng của cách mạng. Gần 24 tuổi Đảng, cũng là một thương binh ¾, từng chia ngọt xẻ bùi với đồng bào Châu Mạ hơn mười ba năm qua, tình cảm giữa tôi với buôn làng này đã trở thành máu thịt. Dẫu đến tuổi nghỉ hưu, tôi sẽ xin về phục vụ công việc ở thôn bản, để được ở mãi mãi với đồng bào !” K’Wi đã lập vườn, dựng nhà kiên cố ở nơi này, đang chuyển dần gia đình từ ngoài huyện lỵ ( xã Phù Mỹ, cách xa 35 km) vào đây an cư lập nghiệp bền vững!./. Tháng 10/2004